1.Thế Nào Là Đệ Tứ Quyền?
Thuật ngữ “Đệ Tứ Quyền” có lẽ được ghi nhận lần đầu bởi học giả Pháp, Alexis de Tocqueville, trong tác phẩm De la démocratie en Amérique [1833], khi xác định bốn quyền lực như
sau:
1. quyền lực trung ương [pouvoir fédéral, cấp liên bang], với sự phân nhiệm thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp;
2. quyền lực địa phương [pouvoirs fédérées, cấp tiểu bang];
3. quyền lực vận động hành lang [lobbies, tranh thủ lá
phiếu];
4. quyền lực của báo chí, truyền thông [presse].
Tại
Hoa Kỳ, báo chí thường được nhắc tới như sự thểhiện đa dạng của đệ tứ
quyền, với khả năng và nhiệm vụ đương đầu với ba quyền lực lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Lúc ban đầu, nhà soạn thảo Hiến Pháp Hoa Kỳ [1787] chỉ đặt trọng tâm vào cơ cấu tổ chức chính quyền trung ương, trên nền tảngtam quyền phân lập, hay phân quyền, phân nhiệm giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với tác dụng kiểm soát tạo thăng bằng [check-and-balance] trong chính quyên.
Phải đợi tới năm 1791 khi mười Tu Chính Án đầu
tiên của Hiến Pháp Hoa Kỳ được Quốc hội phê chuẩn dưới danh xưng “Tuyên Ngôn Dân Quyền” [Bill of Rights], tiếp theo bởi ba Tu Chính Án XIII [1865], XIV [1868], và XV [1870], quyền lực của người dân mới
thực sự được xác định và bảo vệ từ cấp Liên bang tới cấp Tiểu bang. Căn
cứ vào Tu Chính Án Một, luật pháp không được biệt đãi một tôn giáo, lẫn
cấm đoán tự do tín ngưỡng liên hệ; không được cản trở quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí; quyền hội họp ôn hoà và thỉnh cầu chính quyền sửa
sai:[1]
«Congress
shall make no law respecting an establishment of religion, or
prohibiting the free exercise thereof; or abridging the freedom of
speech, or of the press; or the right of the people peaceably
to assemble, and to petition the Government for a redress of
grievances.” [Amendment I, (1791)].
Báo chí [the press]
đích danh được nêu lên tại Tu Chính Án Một, song song với những quyền
công dân khác. Vậy, báo chí và các cơ sở truyền thông, truyền tin liên
hệ cần làm những gì để trở thành đệ tứquyền hiến định?
Trước
hết, Hoa Kỳ không có một bộ thông tin nhà nướcđặc trách khơi mào, chỉ
thị, kiểm duyệt và hạn chế tin tức, mà lại để các hệthống truyền thông
và truyền hình tư chủ động làm công việc quảng bá những điều cần biết,
cần hiểu, trên căn bản tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, theo mức độtự
kiểm và lương tâm nghề nghiệp. Người làm báo, truyền thông và truyền
hình tại
Hoa Kỳ và các nước tự do trên thế giới khi có nhiều quyền hành và thế
lợi thì cũng có nhiều trách nhiệm và bổn phận, nhất là về mặt thủ tục
nghề nghiệp trọng hiến, trọng pháp và về mặt luân lý xã hội, tôn trọng
công lý, lẽ phải và lý tưởng nhân đạo.
2. Thế Lực và Trách Nhiệm của Báo Chí Truyền Thông
Thế
lực của báo chí truyền thông, truyền hình phát xuất từ sứ mạng căn bản
bảo vệ nền dân chủ. Trong mọi nghiệp vụ, nhà báo phải tuân theo và bảo
trọng tự do ngôn luận, tự do tư tưởng tôn giáo, quyền hội họp và thỉnh
cầu chính quyền sửa sai; quyền nhân dân được bảo vệ chính đáng.
Cũng theo quan niệm của cựu nghị sĩ Gary Hart, trong tác phẩm The Fourth Power,[2] truyền
thông có bổn phận tham dự vào trọng tâm đệ tứquyền như một nguồn lực
bảo trọng các quyền hành dân sự hiến định, nhất là tựdo ngôn luận, tự do
báo chí thành một mẫu mực chiến lược toàn cầu.
Thật vậy, báo chí ứng dụng hiến pháp và luật pháp hiện hành quy định tự do tin tức [Freedom of Information Act]
để thi hành nghiệp vụ phóng sự, điều tra và phổ biến sự thật; đăng tải
những sai trái trong công vụ, những bấp bênh, thâm hụt từ nền tảng tới
các cơ sở kinh tế tài chínhđiển hình; tường trình những tai ương nhân
tạo trong khu vực xã hội, an ninh, quốc phòng v.v., hầu kịp thời thông
báo quần chúng và cảnh giác các nhà hữu trách liên hệ về từng nội vụ.
Điển hình
là sau vụ Watergate [1972], mà hai phóng viên Carl Bernstein và Bob Woodward của Washington Post đã
điều tra và đưa lên mặt báo, TT Nixon đã phải giải nhiệm [1974] và
chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ cũng thay đổi, cùng ảnh hưởng đối với
Việt Nam, Trung Hoa và Nga Sô.
Nhờ
sự can thiệp của đệ tứ quyền trong
nhiệm vụ kiểm soát và thông tin, các cơ sở chính quyền và tổ chức liên
hệ đã phãi gìn giữ một mức độ hữu hiệu trong sáng, khi thi hành nhiệm
vụ.
James
Mill [1773-1836] là người đầu tiên nói tới khái niệm “canh chừng” của
giới báo chí, dưới danh hiệu “watchdog”, với sứ mạng bảo tồn giá trị tự
do dân chủ. Cũng theo khái niệm canh chừng và bảo trọng những giá trị
nhân quyền mà một hiệp hội quốc tế phi chính phủ đã dùng danh xưng Human Rights Watch. Khái niệm canh chừng này cũng tương đương với khái niệm kiểm soát tạo thăng bằng [check-and-balance]
giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chỉ khác là ảnh hưởng đối
chiếu ở đây cốt để duy trì mức độ hài hoà song phương, chính trực giữa
công quyền và công dân, giữa biện pháp cai trị và cứu cánh phục vụ dân
chúng, giữa chính thể và tư nhân. Như vậy báo trí giữ đúng vai trò thông
tin va khuyến khích một trạng thái trọng pháp, trọng sinh, xây dựng
tiến hoá trong thế đối sử bình thường giữa quyền lực cai trị và giới
bịtrị.
Mức
độ hài hoà song phương sẽ suy giảm đến độ mất hẳn đi, nếu có sự lạm
quyền, vi phạm của bất cứ bên nào. Giới truyền thông có bổn phậm kịp
thời thông báo lẫn cảnh tỉnh những thế lực liên hệ. Truyền thông báo trí
và cả dư luận quần chúng đóng vai trò “xì hơi” cảnh cáo, trước khi có
náo loạn, dấy biến. Người dân phải biểu tình, chống đối, nổi loạn, khi
chính quyền đi ngược lại với lòng dân, ngược lại với công
lý, hay sao nhãng quyền lợi và an sinh của dân.
Ngay
tại Hoa Kỳ, sau khi ra một loạt những Tu chính XIII [1965] bãi bỏ chế
độ nô lệ, Tu chính XV [1870] cho phép toàn dân đi bầu, không phân biệt
chủng tộc, màu da, sau khi đã thảo hơn 10 Đạo Luật về Civil Rights Act
từ năm 1875 cho tới 1964, hiện tượng kỳ thị, phân cách [discrimination& segregation]
sắc dân
da đen vẫn mặc nhiên hoành hành trên toàn quốc. Do đó, báo trí mọi giới
đã canh chừng, cảnh cáo và bắt buộc phải truyền tin mạch lạc về những
vụ xung đột, bạo động ngay trong nước, điển hình các cuộc nổi loạn tại
Harlem [1964], Watts [1965], Detroit [1967], và gần đây là cuộc phá
phách các khu phố Los Angeles [1992] để chống đối cảnh sát đánh đập tàn
nhẫn Rodney King. Obama đã được chọn làm ứng cử viên Dân Chủ trong cuộc
bầu cử Tổng Thống 2008 thay vì Hilary Clinton, “phần nào” vì ảnh hưởng
của giai đoạn kỳ thị chủng tộc, da màu trước đây, cùng với cái “mặc cảm
tội lỗi” của thành phần cấp tiến Hoa Kỳ.
Trong
giai đoạn hiện đại, truyền thông báo chí tự do trên toàn thế giới cũng
đứng lên thông tin và cảnh cáo về những sai trái nơi chính quyền, những
tai ương nhân tạo do chiến tranh, nổi loạn xẩy ra trên khắp thế giới,
tại Phi Chấu, Trung Âu, Trung Đông, Á Châu, nhất là về những vụ trà đạp
nhân quyền, cướp bóc tài sản, phá hoại kinh tế tại Trung Quốc, Việt Nam.
Đương nhiên giới truyền thông nhà nước cộng sản chỉ sử dụng sứ mạng
loan tin một chiều để a tòng với chính quyền phạm pháp, để bênh
vực kẻ lạm quyền triệt hại dân oan, kẻhèn với giặc ác với dân đã từng
bán ranh, bán đảo.
Do
đó, thế lực của báo chí truyền thông còn phải tương xứng với sứ mạng
đăng tải tin tức xác thực, thông tri kiến thức, và phổ biến nhữngđiều
cần biết để người dân tìm hiểu và chọn lựa thái độ liên hệ với thời
cuộc. Nhờ vậy, báo chí truyền thông có bề thế gây
ảnh hưởng sâu sắc trên dư luận quần chúng.
Nhưng
cũng có lúc thi hành nghiệp vụ, báo chí có thể thiếu sót hoặc sơ ý đăng
tải tin tức sai lạc. Trong những trường hợp tương tự, báo chí tự động
phải kịp thời đính chính, sửa sai đúng nơi, đúng mức.
Tệ hơn nữa, báo chí khi loan tin tức thất thiệt với dụng ý khai thác, trục lợi, sẽ mất quyền tự do ngôn luận [unprotected speech]
và sẽ bị chế tài. Thật vậy, toà soạn, phóng viên, và người đăng tin
thất thiệt có thể bị liên đới về mặt trách nhiệm dân sự, nếu họ chủ tâm
đăng tải hoặc táiđăng những tin tức có tính cách mạ lỵ, phỉ báng, sai sự
thật. Vì thế nhà báo phải thận trọng kiểm soát bài vở đăng tải, phải
kiểm chứng tài liệu và nguổn gốc
tin tức sử dụng.
Nhà
báo chỉ được miễn trách nếu tài liệu đăng tải có tính cách trung thực
và có lợi cho công chúng. Tuy nhiên, sự thật đôi khi bịcấm đoán phô bày,
nếu tin tức, tài liệu đem phổ biến vi phạm đời tư cá nhân, nếu sử dụng
trái phép hình ảnh để quảng cáo thương mại, hoặc chụp lén “nơi tưgia”,
hoặc phổ biến các tài liệu mật về thuế khoá, tín
dụng, y tế, điều trị của một cá nhân v.v.
Riêng
đối với các chính khách, các nhân vật có tên tuổi, “nổi tiếng trong xã
hội”, được chỉ định chung là nhân vật của quần chúng [public figures],[3] nếu
muốn kiện nhà báo đăng tin sai quấy, nguyên đơn không những phải chứng
minh [1] có sự thất thiệt, bêu xấu rõ rệt, có mạ lỵ phỉbáng thậm từ, làm
thiệt hại cho đương sự, mà còn phải chứng minh [2] nhà báo có manh tâm,
ác ý [biết tin sai mà vẫn sử dụng, vẫn đăng tải], hoặc quá độchểnh mảng coi thường hư thực [không kiểm chứng căn bản xác thực] của nội vụ, hay của tài liệu đem sử dụng.[4]
Như
vậy, thế lực của báo chí truyền thông được xácđịnh
bởi sứ mạng gìn giữ truyền thống dân chủ hiến định, đồng thời bởi
nghiệp vụ tôn trọng sự thật và phục vụ giá trị nhân bản của người dân,
của độc giả.Nếu không tôn trọng giá trị hiến pháp, nếu không bênh vực
mẫu mực dân chủ và lý tưởng nhân đạo, báo chí sẽ đi ngược lại với công
lý và lẽ phải, sẽ lầm lẫn và gây ảnh hưởng rối loạn nơi quần chúng.
Đó
là thứ báo chí gia nô, bị tiền tài và thế lực công quyền mua chuộc, xỏ
mũi, bịt mắt, bịt miệng. Đó là thứ báo chí pa-nô, đăng tải tin tức thảo
sẵn, nghiêng ngửa với tuyên truyền, tuyên huấn, chỉ thị một chiều. Loại
báo chí sự-thật-nhà-nước kiểu Pravda,[5] do công an, đảng phiệt, tài phiệt giựt dây, chế tạo, không
thể nào đem ra so sánh với thuật ngữ “đệ tứ quyền” một cách tử tế, trong sáng.
Tạm Kết
Từ thế kỷ 20 tới nay, đệ tứ quyền không còn thu hẹp trong loại báo chí ấn loát đăng tải [presse écrite] mà đã bành trướng thành cơsở truyền thanh, truyền hình, và gần đây thành mạng lưới diễn đàn [websites],điện báo [web pages], ký sự mạng lưới như blog [viết tắt từ “web log”], Facebook, Youtube v.v.
Đệ
tứ quyền như vậy mỗi ngày mỗi phồn thịnh, sáng tạo, trẻ trung, linh
động, mỗi lúc thực hiện trạng thái toàn diện của hệ thống dân chủ toàn
cầu, không ranh giới, không kỳ thị.
Trong
thế năng nổ của truyền thông hiện đại, “tất nhiên một nền báo chí tự do
có thể là tốt hoặc xấu. Nhưng chắc chắn, nếu không có tự do ngôn luận,
ắt sẽ tai hại vô cùng. Tự do là cơ hội cải tiến trong khi nô chế chỉ đem
lại tì tịch và khốn đốn [Albert Camus, 1960].[6]
Nhưng
dù sinh hoạt ở bất cứ dạng nào, bất cứ ở đâu, do bất cứ lực lượng nào
đảm trách thi hành, đệ tứ quyền nếu muốn giữ đúng sứ mạng và khả năng
tồn tại vẫn phải tôn trọng những tiêu chuẩn căn bản về tự do ngôn luận,
phẩm giá nhân bản, công lý và nhân ái. Đệ tứ quyền phải luôn luôn của
dân, bởi dân, vì dân [Of the People, By the People, For the People].
TS-LS Lưu Nguyễn Đạt
· Bài đăng lần đầu ngày March 16, 2010
· đăng lại August 7, 2012
[1] Bất
cứ đạo luật nào được ban hành ngược lại tinh thần bản tu chính trên sẽ phải coi là “bất hợp hiến”.
[2] Gary Hart, The Fourth Power: a new grand strategy for the United States in the 21st century (Oxford University Press, 2004);
[3] Theo án lệ Curtis Pub. Co v. Butts & Associated Press v. Walker, 388 U.S. 130 [1967]
[4] New York Times v. Sullivan, 376 U.S. 254 [1964]
[5] Pravda, tiếng Nga có nghĩa nghịch lý là“Báo Sự Thật”, loại công bố một chiều.
[6] Lưu Nguyễn Đạt, “Khái Niệm về Tự Do Ngôn Luận”, Tư Tưởng Việt, 2003, trang 120, endnote # 24. “Une presse libre peut, bien sûr, être bonne ou mauvaise, mais sans liberté, elle ne pourra qu’être mauvaise… », Albert Camus, Ecrivain, France, 1960.
[2] Gary Hart, The Fourth Power: a new grand strategy for the United States in the 21st century (Oxford University Press, 2004);
[3] Theo án lệ Curtis Pub. Co v. Butts & Associated Press v. Walker, 388 U.S. 130 [1967]
[4] New York Times v. Sullivan, 376 U.S. 254 [1964]
[5] Pravda, tiếng Nga có nghĩa nghịch lý là“Báo Sự Thật”, loại công bố một chiều.
[6] Lưu Nguyễn Đạt, “Khái Niệm về Tự Do Ngôn Luận”, Tư Tưởng Việt, 2003, trang 120, endnote # 24. “Une presse libre peut, bien sûr, être bonne ou mauvaise, mais sans liberté, elle ne pourra qu’être mauvaise… », Albert Camus, Ecrivain, France, 1960.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét