Vũ Linh
... Ông khẳng định là Tin lành, nhưng gần một nửa dân Mỹ vẫn cho
rằng ông là Hồi giáo... Năm 2004, ứng viên tổng thống của đảng Dân
Chủ, Al Gore, ra tranh cử với chiến lược huy động khối thiểu số da màu,
lao động, di dân, người nghèo. Một chiến lược mà người Mỹ gọi là
“populist”, mang nặng mùi mỵ dân. Ông tìm được một chính khách da đen
trẻ, có nhiều tương lai, để đọc bài diễn văn chính trong đại hội đảng
Dân Chủ. Đó là nghị sĩ tiểu bang Illinois, Barack Obama, một chính khách
cả thế giới chưa bao giờ nghe tên, ngoại trừ một khu vực dân da màu
phiá nam Chicago. Nghị sĩ Obama đọc một bài diễn văn có thể nói là “tạo
thời thế”. Cả trăm triệu dân Mỹ bị hút hồn bởi bài diễn văn thật ý
nghiã, đáp ứng
những ước vọng sâu xa nhất của dân Mỹ. Ông tuyên bố đại ý “không có một
Hoa Kỳ bảo thủ hay một Hoa Kỳ cấp tiến, không có một Hoa Kỳ đỏ (Cộng
Hòa) hay một Hoa Kỳ xanh (Dân Chủ), mà chỉ có một Hiệp Chủng Quốc Hoa
Kỳ”. Không ai để ý đến tính mâu thuẫn: một bài diễn văn kêu gọi đoàn kết
toàn dân trong đại hội đảng tổ chức để tấn phong ứng viên chống một
đảng khác, giữa một rừng diễn văn sỉ vả đảng đối nghịch. Quan trọng hơn
cả là cách đọc diễn văn cực hùng hồn của ông. Người ta nói ông Obama đã
nghiên cứu và học cách đọc từ các mục sư da đen nổi tiếng hùng biện như
Martin Luther King và Jesse Jackson, rồi sau này Jeremiah Wright. Lúc
trầm lúc bổng, khi nhanh khi chậm, lập đi lập lại những câu chủ chốt,
dùng những danh từ
và hình ảnh dao to búa lớn nhiều khi chẳng ai hiểu là gì, …
Từ một
chính khách hoàn toàn vô danh, tên tuổi Barack Obama nổi lên như cồn.
Trở thành ngôi sao sáng nhất đảng Dân Chủ. Được mời đi đọc diễn văn trên
khắp nước. Năm 2006, lợi dụng cơ hội ngàn vàng, nghị sĩ Obama quyết
định ra tranh cử thượng nghị sĩ liên bang. Ông dễ dàng đắc cử cuộc bầu
sơ bộ Dân Chủ, rồi hạ luôn ứng viên Cộng Hoà trong một địa bàn mà cử tri
da đen chiếm hơn hai phần ba dân số, trở thành một trong hai thượng
nghị sĩ liên bang đại diện cho tiểu bang Illinois. Ngồi chưa nóng ghế,
thượng nghị sĩ Obama đã nhẩy ra tranh cử tổng thống chưa đầy hai năm
sau. Đối thủ của ông trong nội bộ đảng đều là các chính khách nặng ký:
TNS John Edwards (cựu ứng viên phó của John
Kerry năm 2004 chống Bush), TNS Joe Biden (bây giờ là phó tổng thống),
một lô nhân vật kỳ cựu nữa, và nhất là cựu đệ nhất phu nhân, Hillary
Clinton. Không ai nghĩ ông Obama có một mảy mai hy vọng nào. Chỉ là một
loại ngựa non háo thắng hay ếch ngồi đáy giếng, không biết trời cao đất
rộng. Nhưng con ếch đó đã chứng minh tất cả mọi người đều sai lầm hết.
TNS Obama trở thành tổng thống thứ 44 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Leo
lên ngôi vị tột đỉnh với vỏn vẹn hai năm trên sân khấu chính trị. Hoàn
toàn nhờ tài đọc diễn văn, không hơn không kém. Chỉ vạch rõ yếu điểm lớn
nhất của thể chế dân chủ Mỹ: bầu người lãnh đạo dựa trên khả năng mồm
mép trong khi chẳng ai biết người đó là ai, dù đất nước đang trực diện
khủng hoảng kinh tế lớn
nhất thế kỷ. Tốc độ leo thang của TT Obama nhanh đến mức chẳng ai kịp
nhìn ra quá khứ của ông, để rồi chẳng ai biết rõ ông là ai. Người ta chỉ
say sưa với chủ trương “ba phải” đại đoàn kết mà chẳng hiểu ông có quan
điểm chính trị như thế nào, có khả năng gì, và sẽ làm gì để thực hiện
đại đoàn kết và thay đổi Hoa Thịnh Đốn. Năm 2008, chẳng ai biết Barack
Obama là ai, nhưng lạ lùng thay, đến 2012, sau khi đã làm tổng thống ba
năm rưỡi, ông vẫn là câu hỏi vĩ đại. Trên giấy tờ, ông sanh tại Hạ Uy
Di, nhưng gần một phần ba dân Mỹ vẫn cho rằng ông sanh tại Kenya. Ông là
nửa trắng nửa đen, nhưng luôn luôn tự nhận, suy nghĩ và hành động, cũng
như được coi như là da đen không có một chút trắng nào. Ông khẳng định
là Tin lành, nhưng gần
một nửa dân Mỹ vẫn cho rằng ông là Hồi giáo. Đối nội, ông chỉ trích TT
Bush vô trách nhiệm vì mắc nợ quá mức, nhưng chính ông tăng công nợ gấp
ba lần TT Bush. Ông đả kích bảo hiểm y tế toàn dân của bà Hillary là
thiên tả trước khi ban hành bảo hiểm y tế toàn dân còn thiên tả hơn nữa.
Ông đòi tăng thuế nhà giàu nhưng lại gia hạn luật giảm thuế của TT
Bush. Ông tranh cử với khẩu hiệu đại đoàn kết toàn dân nhưng mau mắn
trở thành tổng thống tạo phân hoá nhất lịch sử Mỹ. Ông bác bỏ những chỉ
trích ông theo chủ nghiã xã hội nhưng lại dùng bạn bè và chuyên gia cực
tả và cộng sản làm cố vấn hay phụ tá. Ông ủng hộ nhóm Occupy Wall Street
trong khi nhận bạc triệu của tài phiệt Wall Sreet. Đối ngoại, ông chỉ
trích TT Bush là cao bồi coi
thường đồng minh nhưng cuối cùng quan hệ Mỹ với các đồng minh truyền
thống như Anh, Pháp, Đức, Nhật, lạnh như băng đá Alaska. TT Obama chống
chiến tranh Iraq, nhưng lại đôn quân vào Afghanistan. Ông tố giác TT
Bush vi phạm công pháp quốc tế khi đánh Saddam Hussein, nhưng chính ông
lại ra lệnh tham chiến tại Libya, giết TT Khadafi, mà không cần xin phép
quốc hội nhân danh “nhân đạo”, nhưng nhắm mắt trước cảnh cả chục ngàn
dân Syria bị thảm sát. Ông kêu gọi một chính sách hoà hoãn, tôn trọng
khối Hồi giáo, nhưng tăng gấp mười những tấn công của máy bay không
người lái giết khủng bố trên lãnh thổ các nước độc lập như Pakistan,
Yemen, giết Bin Laden trên đất Pakistan rồi thông báo cho TT Pakistan
sau khi CNN đã phổ biến tin cho cả thế giới. Quan hệ với đồng
minh chiến lược Pakistan không khác nào quan hệ mẹ chồng nàng dâu.
Những mâu thuẫn này chỉ khiến thiên hạ ngày càng mù mờ về con người của
TT Obama. Ông là Mỹ thật hay Kenya, Tin lành hay Hồi giáo, diều hâu hay
bồ câu, ôn hòa hay cấp tiến, bạn dân nghèo hay bạn tài phiệt? Chưa ai có
câu trả lời rõ rệt. Cuộc tranh cử năm nay đáng lẽ phải làm sáng tỏ vấn
đề khi TT Obama có trách nhiệm báo cáo thành quả cho cử tri, nhưng thực
tế, thiên hạ chỉ thấy ông chú tâm đánh đối thủ và lại hứa hẹn tiếp tục.
Với hơn ba tháng trước ngày bầu lại, ta hãy thử xét lại vấn đề. CON
NGƯỜI TT OBAMA Trước hết, phải nói ngay vấn đề nơi sanh của ông thật ra
không có nghiã lý gì nữa. Hiến Pháp Mỹ đòi hỏi phải sanh tại Mỹ mới được
ứng cử tổng thống. Chuyện
này quan trọng khi ông Obama còn đang tranh cử, chứ bây giờ thì gạo đã
thành cơm từ lâu rồi. Bây giờ có khám phá ra ông sanh tại Kenya thì cũng
không tòa nào dám phán ông Obama là tổng thống bất hợp pháp, không ai
dám nghĩ đến chuyện truất nhiệm ông vì sẽ chỉ tạo ra đại loạn với tất cả
dân da màu xuống đường đốt phá chống lại cái mà họ sẽ gọi là âm mưu kỳ
thị da đen của Mỹ trắng. Hàng triệu dân cấp tiến sẽ đồng ý. Nước Mỹ sẽ
đi vào đại loạn. Tranh cãi về vấn đề tôn giáo của ông cũng sẽ chẳng đi
đến đâu. TT Obama sẽ vẫn tiếp tục khẳng định mình là Tin Lành, nhưng quá
khứ ông vẫn còn quá nhiều liên hệ với Hồi giáo, để rồi vấn đề sẽ còn
được tranh cãi suốt lịch sử Mỹ. ĐỐI NGOẠI Cả hai cuốn sách Obamas Wars
của nhà
báo kỳ cựu Bob Woodward (người khui ra vụ Watergate khiến TT Nixon mất
chức), và The Obamians của nhà báo James Mann đều ghi nhận TT Obama
không bao giờ lấy quyết định trong các buổi họp nội các, chỉ ghi nhận ý
kiến, đặt câu hỏi, rồi cho biết sẽ suy nghĩ và quyết định sau. Sau đó,
ông gặp nhóm phụ tá thân tín, thảo luận lại, rồi mới lấy quyết định.
Ê-kíp đối ngoại của TT Obama thực sự là một nhóm thanh niên cấp tiến
trẻ, khoảng tuổi ba mươi, với những tên lạ hoắc đối với quần chúng, như
Denis McDonough (lo về an ninh), Michael McFaul (Nga và Đông Âu), Stuart
Levey (Iran và Bắc Hàn), Greg Craig (người xúi TT Obama ký sắc lệnh
đóng cửa trại tù Guantanamo), Mark Lippert (trung úy hải quân, thành
viên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia!), Samantha Power (nhân quyền), Suzan
Rice
(Liên Hiệp Quốc), Valerie Jarrett (cố vấn đặc biệt). Đây là những người
không bao nhiêu kinh nghiệm, không quyền hành, không thông qua quốc
hội, nhưng có tiếng nói lớn bên cạnh tổng thống. Nói trắng ra, nội các
với ngoại trưởng Hillary, bộ trưởng quốc phòng Robert Gates, bộ trưởng Y
Tế Kathleen Sebelius, bộ trưởng An Ninh Janet Napolitano, … chỉ là mặt
nổi với những người có kinh nghiệm và uy tín để trấn an dư luận trong và
ngoài nước. Ê-kíp nổi này có khuynh hướng thực tiễn (realist) so với
ê-kíp phụ tá đặc biệt trong hậu trường có khuynh hướng lý tưởng hơn
(idealist), chủ trương Mỹ cần coi trọng những vấn đề nhân đạo, nhân
quyền hơn và can thiệp khi cần thiết. Sự hiện diện của hai ê-kíp đối
nghịch này thỉnh thoảng đưa đến những quyết
định tréo cẳng ngỗng mà mọi người đều thấy rõ. Chẳng hạn như TT Obama
chỉ trích TT Bush đánh Iraq mà lại quyết định đánh Libya vì áp lực mạnh
của các bà Samantha Power và Suzan Rice trong khi bộ trưởng Quốc Phòng
Gates chống và ngoại trưởng Hillary dè dặt. Các bà Power và Rice nhìn
chính sách đối ngoại của Mỹ với con mắt cấp tiến lý tưởng: Mỹ cần phải
“thế thiên hành đạo” vì lý do nhân đạo, trong khi phe thực tiễn lo sợ Mỹ
lại dính dáng vào một cuộc chiến với một xứ Hồi giáo nữa. Rõ ràng là
nhóm phụ tá cấp tiến gần gũi với TT Obama có tiếng nói mạnh trong chính
sách đối ngoại của tổng thống mặc dù thỉnh thoảng, chủ trương can thiệp
cũng gặp những giới hạn thực tiễn như khi Mỹ bó tay nhìn các cuộc đàn áp
đối lập tàn bạo nhất
tại Syria, và múa võ mồm trước lưỡi bò Trung Cộng. IRAQ VÀ AFGHANISTAN
Quan điểm rõ ràng duy nhất của TT Obama khi còn tranh cử là bài diển văn
chống chiến tranh Iraq mà ông đã đọc năm 2002 trong một lần vận động
tranh cử tại Chicago, trước khi TT Bush đánh Iraq, và lời hứa rẽ rút
quân càng sớm càng tốt khỏi Iraq. Ông biết quan điểm này gây thắc mắc
trong giới lãnh đạo quân sự, và cũng ý thức sẽ tạo thêm mâu thuẫn và ưu
tư trong hàng ngũ tướng lãnh nếu ông từ chối yêu cầu đôn quân tại
Afghanistan của tướng Petraeus, người hùng Iraq và Afghanistan, nên đành
chấp nhận đôn quân tại đây. TT Obama chỉ trích TT Bush vi phạm nhân
quyền khi bắt nhốt và tra tấn khủng bố mà không đưa ra tòa. Nhưng ông
lại gia tăng các cuộc đột kích máy bay không người
lái, vừa kín đáo vừa tiện lợi hơn, giết luôn cho tiện, kể cả khủng bố
có quốc tịch Mỹ. Tránh được những sai lầm của TT Bush khi bắt nhốt rồi
tra tấn tù khủng bố. Ông ý thức được yếu điểm lớn của đảng Dân Chủ, mang
tiếng là đảng bồ câu, rất yếu trong vấn đề an ninh, quốc phòng. Trong
thời điểm hậu 9/11, ông sẽ không có hy vọng thắng được đảng Cộng Hoà. Do
đó ông lựa cuộc chiến Afghanistan và chống Al Qaeda để khoác chiếc áo
diều hâu để “cân bằng” quan điểm, vớt điểm với khối độc lập và bảo thủ.
Nhìn cho kỹ, TT Obama vẫn là người thiên về “chủ hòa” trong truyền thống
của đảng Dân Chủ. Các quyết định “diều hâu” của ông trong cuộc chiến
chống khủng bố, Afghanistan, và Libya, chỉ là những bình phong cần thiết
để làm mờ bớt hình ảnh bồ câu quá yếu của đảng Dân Chủ. Mấy ông Na Uy
đã nhìn thấu bình phong đó nên mới tặng Nobel Hoà Bình cho TT Obama, một
phần để hậu thuẫn TT Obama, phần khác để trói tay ông khiến ông khó
thay đổi lập trường. ĐỐI NỘI Một đạo diễn Hồ Ly Vọng gốc Tiệp Khắc,
Milos Fordman viết trên New York Times, biện hộ TT Obama không theo chủ
nghiã xã hội (socialist) như nhiều người chỉ trích. Ông mô tả cuộc sống
hãi hùng trong chế độ CS Tiệp như ba giờ sáng bị công an gõ cửa mang đi
biệt tăm luôn, và nhiều chuyện kinh hãi khác để xác nhận TT Obama không
phải là theo XHCN. Lập luận cực kỳ ngớ ngẩn này được đăng trên New York
Times chỉ làm mất thêm uy tín của tờ báo phe ta này thôi. Ông đạo diễn
xi-nê-ma này không có một chút ý thức
chính trị, đã lẫn lộn tư tưởng xã hội với chế độ CS kiểu Xít-ta-lin.
Không ai nói Obama là Xít-ta-lin hết. TT Obama dù muốn cũng không có
cách nào ra lệnh FBI nửa đêm gõ cửa bắt công dân Mỹ đi thủ tiêu. Khối
bảo thủ chỉ đả kích TT Obama có tư tưởng thiên tả ở điểm muốn xây dựng
một Nhà Nước vú em vĩ đại, tung ra đủ loại thuế để lấy tiền chi trả cho
guồng máy thư lại khổng lồ với hàng vạn công chức áp đặt hàng trăm ngàn
thủ tục luật lệ mà vẫn vô hiệu, chủ trương mua phiếu cử tri bằng đủ loại
trợ cấp, ủng hộ yêu sách của nghiệp đoàn để lấy hậu thuẫn chính trị của
họ. Đây là mô thức chính trị của các đảng dân chủ xã hội Âu Châu. Điển
hình là tân TT Francois Hollande của Pháp, vừa đắc cử đã mau mắn ra luật
tăng
thuế tối đa lên 75% lợi tức. Lời tuyên bố mới nhất của TT Obama, khẳng
định sự thành công của các doanh gia là do công sức và giúp đỡ của Nhà
Nước phản ánh rõ rệt vai trò Nhà Nước vú em trong triết lý kinh bang tế
thế của ông. Ở đây, người ta thấy TT Obama là người rõ rệt thiên tả theo
mô thức Âu Châu. Bộ luật rườm rà gần 3.000 trang cải tổ y tế với Nhà
Nước áp đặt bảo hiểm y tế cho toàn dân bất chấp ảnh hưởng trên ngân
sách, chi phí y tế chung, suy xụp kinh tế và thất nghiệp, chỉ là một
bằng chứng điển hình của mô thức xã hội này. Giống như chính sách đối
ngoại, các chính sách đối nội của TT Obama cũng được ra đời và thực hiện
theo kiểu “song hành”, qua một nội các nổi nhưng không có thực quyền,
và một ban tham mưu trong
hậu trường với các phụ tá, được gọi là Sa Hoàng (csar), phần lớn là
thành phần trẻ cấp tiến, có khi cực đoan như ông Van Jones lo về năng
lượng sạch trước đây là đảng viên Đảng Cộng Sản Mỹ.´´´ Nói tóm lại, bỏ
qua các vấn đề cá nhân của ông, bất chấp những lời hô hào không có đỏ
hay xanh, TT Obama hiển nhiên là một chính khách trong thâm tâm có tư
tưởng bồ câu, thiên tả nhất trong các tổng thống trong lịch sử cận đại
Mỹ. Ông dựng lên một nội các nổi gồm những người có tên tuổi, kinh
nghiệm, có tiếng ôn hoà, chủ trương thực tiễn. Nhưng lại đặt niềm tin và
lấy quyết định theo nhóm phụ tá và cố vấn trẻ, ít kinh nghiệm và cấp
tiến cực đoan hơn. Nhưng cuối cùng thì ông vẫn là chính trị gia thuần
túy, sẵn sàng làm mọi chuyện,
nói mọi điều, hứa mọi thứ cần thiết để đạt thắng lợi cá nhân. Câu nói
của TT Obama với TT Medvedev nói lên hết: ông đừng làm khó tôi bây giờ,
đợi bầu cử xong tôi sẽ dễ nói chuyện hơn.
Vũ Linh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét