Lời Thưa Đầu: Khi già, tôi thấy mình gần với thiên nhiên hơn và lấy làm tiếc là
đã có lúc sống quá hối hả nên quên để ý sự thay đổi hàng năm của đất trời. Cả
bốn mùa – Xuân, Hạ, Thu, Đông – đều coi như “nơ pa” tuốt luốt.
Đêm qua, tình cờ đọc lại mấy bài thơ (Thu Ẩm, Thu Vịnh, Thu Điếu)
của Nguyễn Khuyến mà bâng khuâng cảm xúc rạt rào mãi cho đến sáng. Sáng, nhủ
lòng (Ngô đồng nhất diệp lạc – Thiên hạ cộng tri thu) mình cũng nên có đôi lời
về Mùa Thu – cho nó có vẻ văn nghệ sĩ chơi, chút xíu – dù chỉ là … Thu đểu!
Trân Trọng
——————————————-
Ngày 26 tháng 6, VNEXPRESS đi tin: “Hàng trăm công nhân Bình
Dương nhập viện sau bữa cơm chiều.” Qua mấy bữa sau, 30 tháng 7,
cũng VNEXPRESS lại đưa tin nữa: “Công nhân Bình Tân ngộ
độc tập thể sau bữa cơm trưa.”
Ôi, tưởng gì chớ mấy chuyện lẻ tẻ này thì ông Nguyễn Thanh Phong –
Phó Cục Trưởng Cục An Toàn Vệ Sinh Thực Phẩm – đã báo trước cả tháng rồi mà.
Trong buổi gặp mặt báo chí sáng 14-6, tại Hà Nội, giới chức có thẩm quyền này
cho biết: “Tình trạng ngộ độc thực phẩm quý II tăng hơn quý I” và nguyên nhân
là “do thời tiết nóng bức ảnh hưởng rất lớn đến đường tiêu hóa.”
Thủ phạm, rõ ràng, đã bị chỉ
tên.Tuy nhiên (và tất nhiên) không ai hẹp hòi và cố chấp tới cỡ chỉ trích, phê
bình, bắt lỗi … thiên nhiên hay thời tiết!
Nắng mưa là bệnh của Trời.
Ngộ độc là bệnh của người không may!
Cục An Toàn Vệ Sinh Thực Phẩm (nói riêng) và Nhà Nước (nói
chung) hoàn toàn (và tuyệt đối) không dính dáng gì ráo đến những việc tiêu cực,
xấu xa này. Nói tóm lại, và nói theo người đời thường là “Trời kêu ai nấy dạ.”
Ăn uống (bậy bạ) nhằm lúc “thời tiết xấu” thì bị ngộ độc ráng chịu,
vậy thôi.
Mà chỉ bị ngộ độc cấp tính vì thực phẩm thì kể như là chuyện nhỏ
– và là chuyện xẩy ra hàng ngày – bất kể mùa màng hay thời tiết ra sao, ở xứ
mình. Nơi đây, đồ ăn thức uống nhiều thứ gây ảnh hưởng độc địa hơn nhiều – có
thể khiến “hại gan, suy tủy, ảnh
hưởng thận” – theo như tường thuật của
hai ký giả Đoàn Huy và Thanh Tùng, qua loạt bài phóng sự (“Hãi Hùng Cà Phê Đểu”)
đọc được trên Thanh Niên On Line bắt đầu từ ngày 17 tháng 7 năm 2012:
“Trưa ngày 6.7, men theo con kênh nước đen bốc
mùi trên đường Tô Hiệu, P.Hiệp Tân, Q.Tân Phú, chúng tôi tìm đến cơ sở rang xay
cà phê Thông Phát (số 108 – lô 4 Tô Hiệu, P.Hiệp Tân, Q.Tân Phú). Cơ sở như một
nhà kho, được xây dựng bằng sắt thép mái tôn cũ kỹ, trên diện tích hơn 500 m2.
Bên phía tay phải cơ sở, chiếm 2/3 diện tích là nơi chứa hàng trăm bao tải đậu
nành; phần còn lại đủ để 3 máy rang đậu và 1 căn phòng nhỏ chứa các thùng hóa
chất…
“Cơ sở chế biến cà phê nhưng đố anh tìm được hạt cà phê nào”
– một công nhân ở đây vừa cười vừa nói…”
Dân Việt có thể sống với những toà án đểu, bệnh viện đểu, bằng
cấp đểu, quan chức đểu, lý lịch đểu, dự án đểu, công ty đểu, qui hoạch đểu,
truyền thông đểu, quốc hội đểu, chính phủ đểu … thì (lỡ) uống lai rai thêm vài
ly cà phê đểu – nghĩ cho cùng – cũng không phải chuyện “hãi hùng” gì cho lắm.
Điểm duy nhất đáng chú ý trong loạt bài phóng sự của Đoàn Huy và Thanh Tùng là
họ khám phá ra được cách chế biến thế thôi:
Đậu nành + hoá chất = cà phê đểu!
Công thức giản dị này dễ khiến cho người ta liên tưởng đến một
sự kết hợp nhuần nhuyễn khác, cũng tại Việt Nam:
Dối trá + bạo lực = cách mạng đểu!
Riêng về mặt “dối trá,” nhân dịp cả nước đang nô nức chuẩn bị
đón chào và kỷ niệm cuộc Cách Mạng Mùa Thu, xin mời mọi người xem qua (một
phần) cuộc phỏng vấn của một nhà báo trẻ với một nhà cách mạng lão thành:
“Nói về Tổng khởi nghĩa 1945, một điều có lẽ là
thắc mắc của một số người (tôi không nói là “nhiều người”, vì không biết nhiều
ít thế nào), là thực sự thì cuộc Cách mạng Tháng Tám có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng hay không, khi mà Nhật đã bại trận trong Thế chiến và sẽ phải rút khỏi
Đông Dương, Việt Nam đã có một chính phủ (của Bảo Đại và Trần Trọng Kim), v.v.
Tôi hy vọng những điều mà bà Lê Thi – một trong những nhân chứng của thời đó – nói trong bài dưới đây, có thể trả lời phần nào câu hỏi này – từ góc nhìn của bà… bà Lê Thi sinh năm 1926, nguyên Viện trưởng Viện Triết học, con gái cố Giáo sư Dương Quảng Hàm; bà cũng là một trong hai thiếu nữ kéo cờ trong lễ Độc lập 2/9/1945.(Người kia là bà Đàm Thị Loan, phu nhân Đại tướng Hoàng Văn Thái).”
Tôi hy vọng những điều mà bà Lê Thi – một trong những nhân chứng của thời đó – nói trong bài dưới đây, có thể trả lời phần nào câu hỏi này – từ góc nhìn của bà… bà Lê Thi sinh năm 1926, nguyên Viện trưởng Viện Triết học, con gái cố Giáo sư Dương Quảng Hàm; bà cũng là một trong hai thiếu nữ kéo cờ trong lễ Độc lập 2/9/1945.(Người kia là bà Đàm Thị Loan, phu nhân Đại tướng Hoàng Văn Thái).”
- Và ngày 17 tháng 8 đã diễn ra như thế nào? Với tư cách một người
tham gia cả quá trình, từ lúc chuẩn bị tới khi thực hiện, xin bà kể lại những
gì bà còn nhớ về sự kiện 17 tháng 8.
- Ngày hôm đó, chúng tôi dán cờ đỏ sao vàng bằng giấy, giấu sẵn trong người, kéo tới quảng trường Nhà hát lớn để dự mít tinh từ sáng sớm. Khi người của chính quyền Trần Trọng Kim vừa chuẩn bị khai mạc, thì một người – sau này tôi biết đó là ông Trần Lâm, nguyên Giám đốc Đài Phát thanh – Truyền hình Việt Nam – đã lên được gác hai tung cờ đỏ sao vàng của ta lên. Lá cờ rất lớn, phấp phới bay trong gió, đẹp và oai hùng lắm. Cùng lúc đó, Việt Minh cũng giành micro từ tay người của phía chính quyền, chuyển nó cho hai phụ nữ đại diện của Mặt trận Việt Minh lên nói chuyện…”
- Ngày hôm đó, chúng tôi dán cờ đỏ sao vàng bằng giấy, giấu sẵn trong người, kéo tới quảng trường Nhà hát lớn để dự mít tinh từ sáng sớm. Khi người của chính quyền Trần Trọng Kim vừa chuẩn bị khai mạc, thì một người – sau này tôi biết đó là ông Trần Lâm, nguyên Giám đốc Đài Phát thanh – Truyền hình Việt Nam – đã lên được gác hai tung cờ đỏ sao vàng của ta lên. Lá cờ rất lớn, phấp phới bay trong gió, đẹp và oai hùng lắm. Cùng lúc đó, Việt Minh cũng giành micro từ tay người của phía chính quyền, chuyển nó cho hai phụ nữ đại diện của Mặt trận Việt Minh lên nói chuyện…”
(“Đoan Trang. “Cuộc Khởi Nghĩa Của Những
Người Tay Không.” Tuần Việt Nam 18
Aug. 2009).
Tuy bà Lê Thi mô tả đây là một cuộc khởi nghĩa của “những người
tay không” (*) nhưng – rõ ràng – họ đã “giấu sẵn trong người” và trong
tâm nhiều điều khuất tất. Họ đã “giành micro,” “chớp thời cơ,” và “cướp chính
quyền” từ một chính phủ hợp hiến mà vẫn trơ tráo nhắc lại với rất nhiều hãnh
diện.
Bằng vào những thủ thuật gian trá tương tự (cùng với bạo lực)
hơn nửa thế kỷ qua, những người cộng sản Việt Nam đã tạo dựng ra một Tổ Quốc Xã
Hội Chủ Nghĩa – với rất nhiều nét đặc thù:
“Tổ quốc đã trở thành đao phủ. Những người địa chủ và tư sản
không những bị ruồng bỏ mà còn bị coi là thù địch và bị tàn sát. Rồi cũng nhân
danh tổ quốc họ phát động chiến tranh thôn tính miền Nam làm hàng triệu người
chết và đất nước kiệt quệ.Tổ quốc đồng nghĩa với chiến tranh và chết chóc. Toàn
thắng rồi, tổ quốc xã hội chủ nghĩa quên phắt cam kết thực hiện hoà giải và hoà
hợp dân tộc. Tổ quốc bỏ tù và hạ nhục hàng triệu người. Tổ quốc đánh tư sản,
tống cổ con cái ‘ngụy quân, ngụy quyền’ ra khỏi trường học và lùa đi vùng kinh
tế mới. Tổ quốc khống chế và hăm dọa bằng công an thành, công an tỉnh, công an
huyện, công an phường. Biết dân chúng không còn chịu đựng được nữa và muốn bỏ
nước ra đi, tổ quốc đứng ra tổ chức vượt biên bán chính thức để lấy tiền chuộc
mạng của những người muốn chạy trốn nanh vuốt của mình. Tổ quốc hành động như
bọn giặc cướp. Đến khi bị dư luận thế giới lên án dữ dội vì hành động bỉ ổi
này, tổ quốc dẹp luôn đợt vượt biên bán chính thức và dĩ nhiên không trả lại
tiền. Tổ quốc đểu cáng và lật lọng.”
“Đối với những người ra đi, tổ quốc là sóng gió, hải tặc, là cái
chết trong bụng cá, may mắn hơn là những ngày ê chề trong những trại tập trung
trước khi tìm được một quê hương mới. Tổ quốc là một dĩ vãng cần quên đi. Đối
với những người ở lại, tổ quốc đổi tiền mấy lần để cướp giật, tổ quốc sách
nhiễu từng ngày. Tổ quốc nói trắng cũng được, nói đen cũng xong, cấm rồi lại
cho phép, cho phép rồi lại cấm, muốn bắt hay tha tùy ý, người dân chịu đựng
hết. Vì tổ quốc có súng.” (Nguyễn
Gia Kiểng. Tổ Quốc Ăn Năn.
Không có tên NXB. Paris 2001, 570 – 571).
Ông Nguyễn Gia Kiểng nói (nghe) có vẻ hơi quá lời nhưng thực ra
vẫn chưa đủ ý. Xin nghe thêm vài nhận xét nữa của nhà vănPhạm Đình Trọng – người hiện đang sống ở trong nước – về
những “thảm hoạ” mà Cách Mạng Tháng Tám đã “mang lại” cho người dân Việt:
“Thảm họa chia cắt đất nước. Chia đôi dân tộc
Việt Nam thành hai phe, hai trận tuyến chém giết nhau cả chục năm đằng đẵng,
hàng triệu người lính Việt Nam, hàng triệu dân thường Việt Nam bị chính người
Việt giết chết, hàng triệu người vợ góa bụa, hàng triệu người mẹ cô đơn, hàng
triệu gia đình tan nát. Đất nước thành núi xương, sông máu. Cả dân tộc điêu
linh, nghèo đói vì đất nước bị chia đôi, hai miền Nam, Bắc thành hai trận tuyến
bắn giết nhau.”
Di cư 1954. Nguồn ảnh: langven.com
Di
cư 1954. Nguồn ảnh: langven.com
“Thảm họa Cải cách ruộng đất. Chia một dân tộc vốn yêu thương đùm
bọc nhau, thương người như thể thương thân, thành những giai cấp đối kháng luôn
hằm hè đấu tranh giai cấp, luôn nung nấu hận thù giai cấp, đấu tố, thanh trừng,
sát phạt, hãm hại nhau dẫn đến hàng trăm ngàn cái chết oan ức, tức tưởi cho
người lương thiện. Cải cách ruộng đất hủy diệt những giá trị vật chất, hủy diệt
cả những giá trị văn hóa, tâm linh. Khối đoàn kết dân tộc vốn là sức mạnh, là
tài sản của dân tộc Việt Nam bị phá nát. Đạo lí, văn hóa dân tộc bị hủy hoại.
Niềm tin tôn giáo thánh thiện bị loại bỏ để bây giờ chỉ còn niềm tin thô tục,
thấp hèn, sì sụp lễ bái cầu tài, cầu lộc, cầu thi đỗ, cầu được cơ cấu, cầu được
trúng cử trong đại hội đảng kì, cầu tiêu diệt, trừ khử được đối thủ cạnh tranh
trong chính trị, trong làm ăn.“
“Thảm họa Nhân văn Giai phẩm. Đầy đọa cả một đội ngũ trí thức,
nghệ sĩ, xóa sổ đội ngũ trí thức, nghệ sĩ đích thực, chân chính để chỉ còn
những trí thức, những nghệ sĩ bị công chức hóa, nô lệ hóa, giết chết sự sáng tạo
cả một nền văn học nghệ thuật.
Đấu Tố. Nguồn: Nhà Xuất bản Mỹ thuật, 2010.
Đấu
Tố. Nguồn: Nhà Xuất bản Mỹ thuật, 2010.
Thảm họa tập trung cải tạo. Tù đày không án hàng trăm ngàn người
Việt Nam khác biệt ý thức hệ. Đất nước thống nhất mà vẫn phân chia ta, địch
trong lòng dân tộc, vẫn khoét sâu trận tuyến ý thức hệ trong lòng dân tộc, dân
tộc mãi mãi li tán.
Thảm họa tha hương. Hơn ba triệu người phải xa người thân yêu ruột
thịt, rời bỏ quê hương đất nước ra đi để chối bỏ sự phân biệt đối xử, trốn
tránh cuộc đấu tranh giai cấp độc ác, vô lương. Nửa triệu người bỏ xác dưới đáy
biển. Xa nước đã hơn ba chục năm, đến nay nhiều người vẫn chưa được một lần về
thăm nước chỉ vì khác biệt ý thức hệ, bị chính quyền trong nước vẫn coi là thế
lực thù địch, bị cấm cửa không cho về. Những ai đã xa nước mới thấm thía việc
ngăn cấm con người trở về với quê cha đất tổ, trở về với cội nguồn dân tộc là
độc ác, vô lương không còn tính người như thế nào!
Thảm họa Bắc thuộc. Chính quyền nhà nước ở Việt Nam hiện nay như
không còn là chính quyền của nhân dân Việt Nam, như không còn là chính quyền
của đất nước Việt Nam nữa mà là chính quyền của Đại Hán phương Bắc.”
Dù phải sống với chừng đó thảm họa, hàng năm – cứ vào đầu Thu –
nhà nhà vẫn phải chưng ảnh và treo cờ. Người người vẫn phải hân hoan, nhiệt
liệt chào mừng và kỷ niệm Cách Mạng Mùa Thu. Chỉ cần tỏ ra không hân hoan hoặc
kém nhiệt liệt (chút xíu) là lôi thôi lắm, và lôi thôi ngay, chứ không phải
bỡn.
Thiệt là một mùa Thu đểu!
© Tưởng Năng Tiến
——————————————-
(*) Trong một bài viết trước (“Bọn Mafia Và Những Người Làm Cách Mạng”) trên diễn đàn talawas,
chúng tôi đa ghi nhầm rằng “ký giả Đoan Trang gọi đây là Cuộc khởi nghĩa của
những người tay không.” Thực ra, đây là cách nói của bà Lê Thi, và đã được Đoan
Trang dùng làm tựa cho bài phỏng vấn dẫn thượng. Xin chân thành xin lỗi độc
giả, và nhà báo Đoan Trang, về sự sơ xuất và cẩu thả của chúng tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét