( 解共而 脱 Bỏ Cộng sản thì thoát)
Trong “Thư gửi người đang yêu” nhà văn Phạm
Đình Trọng đã nói với những bạn bè còn vương vấn chút “yêu đương” với Chủ nghĩa
Cộng sản, rằng chủ nghĩa Cộng sản mà học thuyết Mác-Lê vạch đường là một chủ
nghĩa sai lầm, chỉ gây ra tội lỗi với đất nước, không thể sửa chữa mà chỉ có
cách duy nhất là xoá bỏ tận gốc.
Có một thực tế là trong nước cũng không ít
người đã suy nghĩ gần giống như vậy nhưng còn đắn đo chưa nói hết ra
thôi. Nhưng kẻ xâm lược đâu có chờ ta, chúng cứ khẩn trương lấn tới, ngày một
nguy hiểm. Nay quân xâm lược đã riễu binh đến sát cửa nhà, thậm chí vào rất sâu
trong nội tình, nội địa.Trước tình hình ấy, nhiều Blogger đã bày tỏ ý kiến rốt
ráo quyết liệt hơn trước. Tôi xin liên kết nhiều ý kiến về lý luận và thực tiễn
đã có trên công luận, từ gốc đến ngọn, nói gọn lại cho rõ ràng hơn.
Chủ nghĩa Mác-Lê [1] là một lý thuyết muốn
làm điều tốt nhưng nội dung tư duy lại phi khoa học, hoang tưởng, nên sau những
phấn khích ban đầu, cuối cùng chỉ tạo ra những xã hội phi lý, đảo ngược luân
thường, kìm hãm và phá nát xã hội, tạo những cơ hội bằng vàng cho những kẻ cơ
hội chính trị lợi dụng nhảy lên thành những bạo chúa mới, và gây những tai hoạ
cực lớn cho nhân loại, vì thế cần phải vứt bỏ.
Trải hơn một thế kỷ và trên phạm vi toàn nhân
loại, đến nay nhận thức khoa học đào thải chủ nghĩa hoang tưởng ấy đã hoàn tất.
Quanh vấn đề phê phán chủ nghĩa này bây giờ nói gì cũng chỉ là lặp lại ( hoặc
nhai lại) những điều đã giải quyết xong. Với một chân lý đã hiển nhiên thì mọi
lý luận dài dòng đều là thừa. Chân lý đã có ( căn cứ vào nhân loại văn minh)
thì mặc nhiên sử dụng đâu cần chứng minh lại? Chân lý nằm ở cộng đồng nhân loại
200 nước, trong đó có tất cả những những nước tiêu biểu nhất cho tri thức nhân
loại, hay nằm ở 4 nước Cộng sản tàn dư đang cố biến thái để tồn tại?
Với người có tim óc bình thường, chân lý ấy
khỏi cần bàn cãi. Còn với những luận điểm “chày cối” thì vấn đề lại sang một
bình diện khác, không còn ở lý luận khoa học, càng lý luận khoa học bao nhiêu
lại càng vô ích bấy nhiêu.
2/ Vấn đề Mác-Lê chưa xong trong thực tế Việt Nam.
Mặc dù chân lý đã hiển nhiên, nhưng ở Việt
Nam, với 3 “típ” người này thì chân lý ấy vẫn cứ “có vấn đề” để tranh cãi mãi
không dứt:
- những người quá yều về tư duy khoa học nên
lạc hậu về nhận thức,
- những người có tư duy nhưng còn nặng duy
cảm hơn duy lý, nên lúng túng chưa biết xử lý ra sao với gánh nặng tình nghĩa
và di sản trong quá khứ
- những kẻ cố tình cãi chầy cãi cối vì mục
đích duy lợi.
Tổng số 3 “típ” người này đang còn rất đông
và còn chi phối xã hội, nên trong thực tế câu chuyện Mác-Lê chưa thể chấm dứt.
Tuỳ theo mức độ và động cơ khước từ chân lý
mà họ có thể còn những nét đáng yêu, đáng thông cảm, hoặc đã thành đáng trách,
đáng giận, hoặc đáng ghét.Với những trường hợp ấy hoặc chỉ cần nói ngắn gọn,
chỉ nói vào những chuyện thực tế, hoặc phải ứng xử bằng cách khác, tuyệt nhiên
không cần lý luận bài bản dài dòng như một đề tài triết học chuẩn mực cho phí
công.
Lại có người suy nghĩ đơn giản : Chính ĐCS
ngày nay thực chất có theo Mác-Lê nữa đâu, ta nói Mác-Lê nữa làm gì? Xin
thưa, ĐCS chỉ bỏ một phần trong “Mác Kinh tế” thôi, đâu có bỏ lề lối chuyên
chính Mác-Lênin-Staline trong hệ thống chính trị? ĐCS còn cần đến Mác-Lê cả về
danh nghĩa lẫn nội dung.
Chủ nghĩa Mác-Lê (và dẫn xuất là tư tưởng
HCM) vẫn là cơ sở để một đảng CS độc quyền có thể tồn tại, vẫn là yêu cầu có
tính chất sinh-tử để duy trì một xã hội với nhiều điều ngang trái như hiện nay,
mất nó điều 4 Hiến pháp sẽ không có lý do tồn tại, đảng phải giữ nó như giữ con
ngươi của mắt mình chứ không phải chỉ là cái vỏ hờ bên ngoài. Có điều là cái mà
người ta cần đặt lên bàn thờ để sử dụng chưa hẳn đã là cái người ta coi là
thiêng liêng (như sẽ nói thêm ở phần sau).
Thực chất khẩu hiệu “Kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN” không phải nhằm cái đích XHCN xa xôi mà ai
cũng biết là không có thật, mà phải hiểu một cách thiết thực đó là “Kinh tế
thị trường kiểu Cộng sản”. “, tức là quá trình“tư bản hóa theo những
bài bản có lợi nhất mà giới CS chóp bu độc quyền mong muốn ”, là dùng chuyên chính Vô sản độc tôn để độc quyền
tích lũy tư bản, không loại trừ quyền buôn bán tài nguyên và lãnh
thổ quốc gia. Chừng nào quá trình tư bản hoá ấy đã xong thì cái vỏ Mác-Lê sẽ
hết tác dụng, và buộc phải hết tác dụng, nếu không thì những nguyên lý “có áp
bức thì có đấu tranh” và “đào mồ chôn Tư bản” sẽ quay ngược mũi dùi vào chính
giai cấp Tư bản đỏ do Mác-Lê đẻ ra.
3/ Vua đã cởi truồng , dân làm sao còn giữ “Lễ” ?
Tại sao sự giả dối lại phát triển thành căn
bệnh phổ biến và trầm kha như hiện nay?
Một chủ nghĩa phi khoa học lại muốn được mọi
người tôn vinh là duy nhất khoa học để cả xã hội tuân theo thì đương nhiên phải
lừa bịp, kết hợp với bạo lực áp đặt. Nhưng trong hai biện pháp đó thì cách lừa
bịp, nguỵ biện, giả khoa học để ngụy tạo sự “tự nguyện” mới là chủ yếu, là sở
trường, còn bạo lực với nhân dân chỉ là phương án 2, phương án bất đắc dĩ.
Nhưng sang giai đoạn mạt kỳ, thực tế đã phơi bày hết thảy, sự mị dân mất tác
dụng, thì phương án 2 dần trở thành chủ yếu, các ĐCS phải bỏ sở trường dùng sở
đoản là dùng bạo lực với nhân dân. Uy tín không còn, chính danh không còn, ngai
vàng còn giữ được nhờ hết vào đội KIÊU BINH khổng lồ, rải khắp hang cùng ngõ
hẻm.
Công an thì ngang nhiên tuyên bố “chỉ
biết còn Đảng còn mình”, quân đội chẳng những tuyên thệ trung
với Đảng mà còn tuyên bố nhân dân nào theo đảng mới được coi là nhân
dân!.
Tóm lại, dưới gầm trời Việt Nam thì công an, quân đội đã là của đảng mà dân cũng
là của đảng luôn (nếu không chấp nhận điều ấy thì thành thù địch).
Kiêu binh vừa gắn chặt với Đảng của xã hội đỏ lại vừa công khai đi sóng đôi với
côn đồ của xã hội đen trước thanh thiên bạch nhật, kiêu binh thản nhiên làm
điều vô pháp luật, luật là tao, tao thích bắt là bắt cần gì phải lệnh, kiêu
binh đánh chết người nếu thích, kiêu binh sẵn sàng văng cả
đồ dơ vào mặt những vị đương quyền tối cao của họ nếu cần thiết…,
khi kiêu binh đã muốn ra oai với dân thì mặt mũi các quan đương triều cũng
chẳng là cái đinh gì, vì họ thừa biết lúc này ai đang cần đến ai?
Phơi hết sự tàn bạo bất cận nhân tình không
cần che đậy, đấy là sự tự bóc trần, tự “khoả thân chính trị” của chế độ chuyên chính trong nước. Đồng
thời, sự chuyên chính trong thế giới Cộng sản với nhau cũng “khoả thân”
luôn không che đậy: việc chính thức thành lập thành phố biển Tam Sa với đầy đủ
quy chế hành chính và quân sự, việc kêu gọi đầu tư ngay trong thềm lục địa
đương nhiên của Việt Nam, đưa 23.000 tàu đánh cá tràn vào vùng biển Việt Nam…đã
tự lột trần cái bản mặt giả dối của chủ nghĩa quốc tế Cộng sản đến mức
không còn một chút lá nho, cả những 16 chữ vàng, quan hệ 4 tốt, và cuộc thi ca
khúc Việt-Trung và lời kêu gọi tri ân kẻ xâm lược cũng trở nên trơ trẽn, hèn hạ
không thể chấp nhận. Làm những điều quá hạ sách ấy, cả thế giới Mác-Lê như muốn
thách thức công luận rằng “ông vô lý, ông tàn bạo, ông ngang ngược thế đấy,
ông cứ làm trái ý dân, cứ làm trái công pháp quốc tế thế đấy làm gì được ông”?
.
Thế là Vua đã cởi truồng tồng ngồng
giữa phố như trong truyện ngắn Andersen mà hết thảy vẫn cứ đeo mặt nạ để ca
ngợi bộ áo choàng quang vinh vô địch muôn năm ! Thực chất chế độ Cộng sản chỉ
là một chế độ phong kiến biến tướng
[2], nên suốt nửa thế kỷ nay, dù oan ức đến mấy người dân vẫn phải cư xử, ăn
nói nhỏ nhẹ cho phải đạo, nói có chỗ dù không bao giờ được trả lời, chỉ nói râu
ria cấm nói vào chỗ phạm. Ngay cả khi có báo chí “lề trái” ở trong nước thì lúc
đầu cũng chỉ dám nói vào những việc cụ thể, không chạm đến Đảng, nếu muốn chạm
đến gốc rễ của chủ nghĩa và lãnh tụ thì nói theo kiểu “ám chỉ” xa xôi nhưng ai cũng
hiểu…Tất cả những sự đeo mặt nạ giả dối ấy chẳng qua là giữ LỄ trong một thể
chế phong kiến cho phải đạo, ăn nói ra vẻ cung kính nể nang nhưng trong lòng đã
hết tin yêu rồi.
Trò xiếc dối trá lẫn nhau, cố giữ bộ mặt
đúng quy cách ấy không thể kéo dài mãi. Phía vua quan đã “khoả thân tới
số” thì dân chúng còn cung kính giả vờ sao được? Dùng súng hoa cải uy hiếp kẻ
cưỡng chế đất, bắt nhốt Công an để hỏi cung, phụ
nữ liều mạng khoả thân để giữ đất…vânvân…là những hành động “phá cách”!
(Nhưng mẹ
con bà Lài đã lầm, cái giới hạn nhân cách tuyền thống mà bà tưởng là ranh
giới phòng vệ cuối cùng thì trong thế giới của những Nguyễn Trường Tô-Hô đâu có
giá trị gì?).
Đến giai đoạn này thì các Blogger trong nước
cũng không giữ Lễ nữa: không cần ám chỉ mà kể thẳng tên người tên việc dù là
thủ tướng hay tổng bí thư, hay Bộ Chính trị. Mác-Lê không còn là điểm nhạy cảm
phải kiêng, lại còn nghi ngờ rằng Đảng và nhà nước có định chống xâm lược thật
không (hay đã đồng tình với giặc xâm lược?), coi chính quyền chỉ là một đám
cướp lớn phản động đã rõ ràng …
Một Blogger tối thân cận với trùm chuyên
chính Vô sản đã gọi Hồ Chí Minh là ”Ku
Nghệ” mà không bị khiển trách thì đủ biết trong hậu trường họ đối với cụ Hồ
cũng chẳng thành kính gì. Lại xuất hiện Blog quanlambao (là tiếng nói của nội bộ
Đảng, phe Chỉnh đốn đảng chống phe Tham nhũng) chửi thẳng như tát nước
vào mặt đương kim Thủ tướng còn hơn đánh kẻ thù mà không bị trừng trị.
Những ranh giới cũ đã bị phá hết.Một giai
đoạn đối thoại mới, bằng ngôn ngữ khác trước, đã bắt đầu. Phía Đảng và nhà nước
đã dùng “NGÔN NGỮ” mới (gồm cả ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ hành động) thì nhân
dân cũng dùng “ngôn ngữ” mới tương xứng. Vua đã cởi truồng, sao Dân còn
giữ Lễ mãi được? Tinh thần nói đúng sự thật, nói hết sự thật đang sang một chất
lượng mới..
Cuộc đối thoại mới đã bớt đi rất nhiều mặt nạ
phù phiếm để đến gần với sự thật hơn, bổ ích hơn, khẩn trương hơn, hiệu quả
hơn. Những lời mạn đàm này gửi đến bạn bè cũng trên tinh thần mới và ngôn ngữ
mới ấy.
Một khía cạnh khác của nhu cầu nói thật là
nhu cầu về phương pháp. Nếu phía quyền lực đã dùng phương pháp che đậy, nguỵ
trang, mơ hồ, chung chung…mà phía phản biện cũng chơi đúng theo cách ấy thì
thua! Trong bóng đá người ta bảo thế là “bị áp đặt lối chơi”, phải hết sức tránh. Lúc đầu nói thật quá
e sẽ bị quy chụp nên phải thủ thế, nhưng nay đã khác.
4/ Tình hình đã quá chín muồi cho một cuộc xâm lược.
Khi Trung quốc chính thức thành lập thành phố
Tam Sa (gồm 2 quần đảo HS và TS của Việt Nam) và đưa 23.000 tàu đánh cá vào
vùng biển VN nhiều người gọi hành động ấy là liều lĩnh và lấy làm ngạc nhiên
Thực ra không đáng ngạc nhiên và Trung Quốc không hề liều lĩnh khi đã thiết kế
chiến lược một cách vững chắc và tính toán cụ thể chắc ăn trăm phần trăm.
Do vị trí địa-chính trị nênViệt Nam trở thành
cửa ngõ mà chủ nghĩa Đại Hán buộc phải chiếm lĩnh để bành trướng về phía nam,
nhưng Việt Nam trước đây đã kiên cường và mưu lược, phá tan mộng xâm lăng ấy
của Trung Quốc.
Bất hạnh thay, sự xuất hiện trào lưu Quốc tế
Cộng sản hoang tưởng đã cung cấp cho Trung Quốc một cơ hội bằng vàng. Họ tận dụng
những đặc trưng của Cộng sản để đưa con mồi vào lưới. Con mồi tự tìm đến cái
bẫy, nhưng bị tấm màn “Quốc tế đại đồng” che mắt, nhìn cái bẫy thành
chốn ruột thịt nương thân. Những năm 1949-1950 khai thông biên giới Việt Trung,
một VN đã kiệt lực buộc phải dựa hẳn vào Trung Quốc để có sức đánh nhau với
Pháp, những món hàng việt trợ từ vũ khí, quân trang quân dụng đến nhu cầu dân
sinh là khởi đầu những trói buộc có tính chiến lược, là sợi dây thòng lọng đầu tiên, tận
dụng những quan hệ thân thuộc của những người lãnh đạo đã có với Trung Quốc làm
sợi dây liên kết.
Cái thòng lọng thứ hai là do chuyến ngoại giao cầu hòa
của Việt Nam diễn ra tại Thành Đô ngày 3-4/9/1990. Xét trong quan hệ có tính
lịch sử giữa 2 kẻ thù truyền kiếp thì cuộc cầu hoà này chính là cuộc tuyên bố
đầu hàng. Với hiệp ước Thành Đô (nhất định lịch sử sau này sẽ bạch hoá) Trung
Quốc đã tẩy rửa được dấu vết chống Trung Quốc của Việt Nam tượng trưng bởi ý chí chống Tàu cứng rắn của TBT Lê Duẩn và
cuộc chiến biên giới 1979. Sau hội nghị Thành Đô kế hoạch xâm lược đã thiết
kế xong những nước cờ căn bản.
Từ đấy trở đi, chỉ cần 4 năm một lần Trung
Quốc khống chế người cầm đầu Việt Nam, tức Tổng Bí thư đảng, là đủ cho kế hoạch
xâm lược tiến hành trôi chảy. Muốnvậy phải giữ cho VN yên vị theo chế độ Cộng
Sản, không được dân chủ hoá, không được liên kết chiến lược với Hoa Kỳ.
Kết quả của chủ trương liên kết chiến lược với Trung Quốc và liên
kết lửng lơ với Hoa Kỳ là đã tạo những “điều kiện cần” và
“điều kiện đủ” cho cuộc thôn tính Việt Nam một cách hoà bình. Điều
kiện “cần” là một bộ máy lãnh đạo Việt Nam phải là bộ máy thân thiện Trung
Quốc, không coi Trung quốc là xâm lược, đồng thời nhân dân Việt Nam thì
tinh thần bạc nhược, không quan tâm đến sự đe doạ của Trung quốc, chấp nhận để
“Đảng và Nhà nước lo”. Điều kiện “đủ” là làm sao khống chế được sự phản kháng
của lực lượng tinh hoa là những người Việt còn giữ được sự cảnh giác và lòng
quyết tâm bảo vệ đất nước, không cho họ đánh thức được dân chúng, đồng thời Hoa
Kỳ và quốc tế không can thiệp.
Khi ĐCSVN đã cam kết với ĐCS TQ thực hiện đủ những điều kiện ấy, thì (xin lỗi) chỉ một Trung Quốc ngu mới không tiến hành xâm lược
Việt Nam.
Giữa lúc quân xâm lược kéo binh mã rầm rập
vào trong biên cương Tổ quốc mà các thủ lĩnh tối cao thì im phăng phắc, nhưng
ra lệnh cho khắp nơi hát vang lời hữu nghị và tri ân, cho tướng lĩnh đứng
ra tay bắt mặt mừng, và ra sức bắt giữ những người phản đối xâm lược! Cảnh
tượng diễn ra như một trận công thành được chuẩn bị chu đáo, có nội công,
vô hiệu hóa lính gác, vô hiệu được quân lính trong thành, lại tổ chức sẵn một
đội kèn trống chào mừng, nghênh đón sứ quân của thiên triều. Tất cả như có sự
phân công, phối hợp trong ngoài vậy. Chẳng trách người dân phải đặt thẳng sự
nghi ngờ vào lòng dạ của người cầm vận mệnh đất nước:
“Nguy cơ mất nước là hoàn toàn có
thật. Đến lúc này nhân dân buộc phải hỏi: Đảng
và Nhà nước có thực sự muốn chống xâm lược không? “
(Cả đến việc thông qua Luật biển, làm nức lòng nhiều người , nhưng tiến
hành song song với những động tác ve vãn kẻ xâm lược và cấm dân biểu tình thì
có đáng tin không hay chỉ là “đánh trận giả” để đánh lừa dân chúng, giúp kẻ
địch tiến thêm một bước nguy hiểm?).
Thiên vạn cổ chưa có trận chiến nào được bố
trí vẹn toàn như thế, sao lại bảo cuộc tấn công ấy là liều lĩnh được? Chiến thắng trong tầm tay,
an toàn 100% như thế mà không tiến công thì Trung Quốc ngu à?.
5/ Giải Cộng nhi thoát! Có từ bỏ Mác-Lê cùng với cái gọi là XHCN mới cứu
được nước!
Xem như vậy thì suốt từ 1950 tới nay (2012),
tất cã những thiết kế chiến lược và thực thi từng bước chiến thuật cho sự thôn
tính Việt Nam kiểu mới của Trung Quốc đều phải dựa trên một nhân tố trung tâm
và quán xuyến là đảng Cộng sản, thiết chế Cộng sản, và quan hệ Cộng sản. Việt Nam nếu không là Cộng sản thì Trung Quốc
hoàn toàn bó tay.
Vậy, theo lô-gích, đáp số của bài toán phòng
thủ đất nước trước nạn Tân Bắc thuộc đã hiện ra rõ mồn một. Một Việt Nam 90
triệu dân, dân chủ pháp quyền phi Cộng sản, có bầu bạn khắp năm châu, chẳng có
lý gì phải nằm trong vòng tay “ôm ấp” của Trung Quốc thì anh bạn khổng lồ xấu
tính buộc phải nhớ đến những Chi lăng, Bạch đằng, Đống đa mà chìa bàn tay hữu
nghị giao thương với sự bình đẳng và kính nể.
Truyện kể rằng: Tướng nhà Minh Lưu Bá Ôn vào
thăm mộ Khổng Minh, mặc giáp sắt khi đi qua cổng lát bằng nam châm liền
bị hút chặt xuống đất. Lưu Bá Ôn đang luống cuống bỗng ngước nhìn lên thấy một
bức hoành trên đề bốn chữ “Giải y nhi thoát” 解 衣 而 脱 (Cởi áo ra thì thoát) bèn làm theo …
Nay chủ nghĩa Mác-Lê đối với ĐCSVN cũng chỉ
như chiếc áo giáp sắt, mặc vào là bị thanh nam châm khổng lồ Trung quốc hút
chặt, không ngẩng lên được. Giải Cộng nhi thoát 解共而 脱, là cách tự cứu duy nhất, đẹp lòng dân tộc, và vẹn cả đôi đường.
KẾT LUẬN : GIỜ NGUY BIẾN ĐÃ ĐIỂM !
1/ Trước mắt, muốn cứu nước, dân ta cần
phá cho được cái chiến lược “diễn
biến hoà bình” trong quan hệ Trung-Việt, mà thực chất là xâm lược hoà bình và làm mất nước một cách hoà bình! Họ
muốn đô hộ một nước khác mà không cần gây một cuộc chiến tranh xâm lược, kế
hoạch thật là thâm độc!
Chiến lược xâm lược hoà bình này do nhà cầm
quyền Tân Đại Hán khởi thảo và áp đặt, ĐCSVN tự sa vào thế kẹt buộc phải làm
theo. Hai đảng thoả thuận kín,
quyết định số phận của Việt Nam là nước nhỏ hơn, nhân dân cả hai nước đều được
sử dụng như những công cụ.
Chỉ có nhân dân Việt Nam mới giúp được ĐCSVN
ra khỏi thế bị kìm kẹp này. Nhưng muốn vậy ĐCS phải dũng cảm chịu đau một chút,
khiêm nhường một chút, giảm đi một chút lòng “kiêu ngạo cộng sản” vô lối,
để thừa nhận nhân dân, để “lột xác”, thoát khỏi chủ nghĩa hoang tưởng
phản tiến hoá để trở về với dân tộc, tìm lại sự vinh quang chính đáng trong
niềm kiêu hãnh chung của cả dân tộc.
Bằng sự gặm nhắm của chiến lược Việt-Trung
hữu hảo diễn biến hoà bình,“ cái ổ chim đại bàng” mà tổ tiên ta gây
dựng đang từng ngày từng giờ chật hẹp dần lại một cách toàn diện, thành“cái
tổ con chim chích” như vua Trần Nhân Tông đã lo trước nhiều thế kỷ. Hoạ
mất nước đã nhỡn tiền !
Không nhân dân nào thích chiến tranh, nhưng
lời QUYẾT CHIẾN, chứ không HÒA, của Hội nghị Diên Hồng là vết son trong lịch
sử. Hoà bình là quý, nhưng hoà bình để mất nước êm như ru là thứ hoà bình đáng
nguyền rủa, không thể so với sự diễn biến hoà bình để tự chuyển hóa
thành một nước dân chủ văn minh, chính là thứ hòa bình công chính và kiêu hãnh,
không kẻ nào chống được.
2/ Về căn bản và lâu dài , xuất phát từ
nhu cầu xây dựng đất nước cũng như từ yêu cầu bảo vệ đất nước khỏi hiểm họa Bắc
thuộc, xã
hội Việt Nam phải từ gĩa ảo tưởng Cộng sản, trở về một chế độ
dân chủ lành mạnh thông thường như các nước văn minh, không có con đường nào
khác. Chừng
nào còn giữ chế độ gọi là “Xã hội chủ nghĩa” bên cạnh anh Cộng sản khồng lồ
Trung Quốc, thì hoạ mất nước là thường trực.
Có thể ĐCSVN lường trước bước thứ hai này nên
nghi ngờ và cấm người dân biểu tình chống Trung Quốc xâm lược ?.
Tôi nghĩ mọi việc hoàn toàn trong sáng, không
có gì thủ đoạn ở đây. Cần nói thật với nhau rằng việc trước mắt cũng như lâu
dài đều đòi hỏi phải tháo vòng Kim-cô chuyên chính Vô sản, nhưng tính chất hai
việc khác nhau xa. Kẻ xâm lược là giặc đến từ bên ngoài, cần phải làm cho họ
thất bại trong âm mưu đó, việc ấy phải làm ngay không thể trần trừ, hoàn toàn
không giống với quan hệ người trong một nước với nhau, quan hệ được cố kết bởi
tình yêu Tổ quốc ngàn đời thiêng liêng, để cùng xây dựng một đất nước văn minh
là điều hoàn toàn có thể thực hiện được, mà nước Đức là một tấm gương đầy
thuyết phục.
(9-8-2012)
© H.S.P.
© Đàn Chim Việt
============================== ============================
[1] Sai lầm gốc từ Mác nhưng phải cộng với
Lênin mới thành một thể hoàn chỉnh về chính trị và lan rộng ra thế giới.
[2] Hà Sĩ Phu : http://www.hasiphu.com/ll3. html
————————————————————-
PHẦN VIẾT THÊM
Cần thoát khỏi một vài nguỵ biện và những suy nghĩ tự trói buộc
* Nhiều đảng viên rất lo ngại cho hiện tình
xuống dốc và bất lực của đảng hiện nay, nhưng băn khoăn trước câu hỏi: Đảng
không ưu việt sao đánh được Pháp, được Mỹ? Đảng cũng làm được nhiều việc tốt
đấy chứ? Ba triệu đảng viên hầu hết là tốt thì đảng sao lại xấu được? Xin nêu
tóm tắt mấy ý góp phần giải đáp:
- Mác-Lê vào được Việt Nam là do tháp tùng
lòng yêu nước, những thành tựu có được là do tựa vào sức mạnh yêu nước của dân
tộc mà có. Ở đâu và khi nào nhân tố chuyên chính vô sản phát huy tác dụng, lấn
át truyền thống dân tộc, thì ở đó, khi đó, phát sinh sai lầm và tổn thất.
- Cái tốt chủ yếu ở giai đoạn đầu,
khi cầm quyền là bắt đầu thoái hóa, càng củng cố được quyền lực thì càng thoái
hoá, càng về
sau càng thoái hóa. Muốn lấy lại thiện cảm thì phải “ăn mày quá
khứ”.
- Cá nhân đảng viên có thể tốt, nhưng đứng
trước tổ chức thì những cái tốt cá nhân bị vô hiệu hoá. Tổ chức Cộng sản là
phép cộng những “số dương” thành một “số âm”, sử dụng rất nhiều người tốt để
thực hiện một điều huyễn hoặc, không tốt. Càng lên trên thì tính “bản thiện”
của con người càng bị tính chuyên chính sai lầm của tổ chức lấn át, cho nên càng lên trên càng tiêu cực. Tham nhũng độc quyền ghê
gớm nhất đều ở cấp cao. Chính gương tốt, liêm chính, của các
đảng viên ở cơ sở là tấm bình phong che cho tội lỗi của cấp cao
- Bởi là người tốt, người yêu nước, nhưng bị
dòng lịch sử cuốn vào một trào lưu huyễn tưởng nay đã bị lịch sử đào thải, thì
mỗi người đảng viên cộng sản đều phải chọn một trong hai sự “phản bội” không
thể thoái thác: hoặc cứ nhắm mắt theo chủ nghĩa thì phản bội dân tộc, hoặc đặt
dân tộc lên trên thì sẵn sàng từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lê ảo tưởng, đó là sự từ bỏ,
sự “phản bội” đáng ca ngợi.
* Một nguỵ biện nhằm chống biểu tình:
Người dân muốn biểu thị quyết tâm chống xâm
lược, bảo vệ đất nước thì phương pháp truyền thống ở mọi quốc gia là BIỂU TÌNH.
Muốn giúp cho quân xâm lược khỏi bị làm phiền thì nhà cầm quyền Việt Nam hứa
với họ là kiên quyết cấm dân VN mình biểu tình. Nhưng không thể công khai cấm
biểu tình (vì cấm là phi lý và thất nhân tâm) thì cấm những gì liên quan
không thể tách rời với biểu tình là đi đông người trên phố, bèn
quy tội là
gây rối trật tự, ảnh hưởng đến giao thông. Đây là nguỵ biện dùng “mẹo Trạng Quỳnh”: nếu
không thể cấm ỈA thì cấm ĐÁI, không được đái thì làm sao mà ỉa? Thế
là không cấm biểu tình mà dân không biểu tình được.
Nhà nước ta quả là nhiều sáng kiến và tận tâm
với bạn vàng xâm lược. Nhưng xin thưa điều quy kết này là bậy bạ và phạm pháp.
Đường xá là của toàn dân, người dân được sử dụng để đi lại thông thường và đi
lại trong những việc đông người chính đáng: đám cưới, đám tang rất cản trở giao
thông, đón rước, hội hè rất cản trở giao thông…thì giao thông tạm ngừng một
thời gian ngắn, có sao đâu? Biểu tình bảo vệ Tổ quốc còn chính đáng và quan
trọng hơn mọi sinh hoạt khác, giao thông phải tạm dừng để phục vụ biểu tình
cũng là chính đáng, huống chi lèo tèo vài trăm người thì cản trở nỗi gì? Mẹo “cho Ỉa nhưng cấm đái” này sẽ còn
phát huy nhiều nguỵ biện xảo trá khác nữa, nhưng nhân danh một “Chính” quyền mà
dùng mẹo bẩn như vậy thì còn “chính” nữa không?
9/8/2012
HSP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét