Thứ Hai, 26 tháng 12, 2011

Bầu Bí một giàn

Tràm Cà Mau
Nguời xua viết rằng, tha huong mà gặp nguời quen biết cu là một trong bốn cái thú lớn nhất trong đời. Tôi nghi, cần chi phải là quen biết cu, tha huong mà gặp một đồng huong, cung mừng đến lịm nguời đi chứ.
Đó là truờng hợp của anh Hy và tôi, khi gặp nhau trong cái thành phố Morris nhỏ bé, có dân số bảy ngàn nguời nầy, vào năm 1981.
Tôi vì com áo, mà trôi dạt đến đây, gặp anh Hy. Việt Nam trong thành phố nhỏ hiền hòa nầy. Không quen biết truớc, mà chúng tôi quý và thân thiết nhau còn hon cả anh em ruột thịt.
Gia đinh anh Hy có năm nguời, bà mẹ già, hai vợ chồng anh và hai đứa con nhỏ. Lần đầu tiên gặp chúng tôi, bà cụ mẹ anh Hy cầm tay vợ tôi mà mắt rung rung vì mừng, bà cứ vuốt ve lung bàn tay vợ tôi mãi. Vợ tôi thân thiết ngồi ép sát vào bà.

Bà cuời nói sung suớng, nhu vợ tôi là đứa con gái của bà thất lạc nhiều năm mới tìm lại đuợc. Gặp nguời đồng huong là sung suớng thế đó.
Chị vợ anh Hy thì không dấu đuợc niềm vui, cuời nói tíu tít, và nhìn hai vợ chồng tôi với ánh mắt đầy thiện cảm. Anh Hy hiền lành, ít nói, nhung nụ cuời trên môi nở mãi không tàn. Hai đứa con chua biết gì, chạy nhảy, reo hò. Gia đinh anh Hy sung suớng, chúng tôi cung hân hoan mừng.

Một buổi tối, tôi đi làm về, đuợc điện thoại của anh Hy, anh hớn hở báo cho tôi biết rằng, sắp có một gia đinh Việt Nam tị nạn đến thành phố nầy. Giọng anh vui mừng ríu rít. Ông bà nguời Mỹ bảo trợ mới thông báo cho anh biết. Ông bà muốn anh xếp đặt thì giờ, để cùng mấy nguời trong họ đạo đi đón nguời mới đến, vào thứ tu tuần tới. Tôi vội vã báo tin mừng cho vợ, và trong lòng nghe lâng lâng vui. Có thêm càng đông đồng huong, càng đở buồn, và thỉnh thoảng qua lại chuyện trò cung bớt cô đon noi quê nguời. Vợ tôi bàn thêm, nếu thuận tiện, thì chúng tôi cùng đi đón gia đinh Việt Nam tị nạn nầy cho vui, và tỏ cái tình thân thiết lúc ban đầu.

Suốt trong tuần, vợ anh Hy và vợ tôi soạn nồi niêu, chén bát, ly tách, muỗng đủa, chia bớt các thứ cần dùng trong nhà, để dành mà tặng cho gia đinh mới đến. Mỗi khi bà Mỹ bảo trợ tiết lộ một tin tức gì về nguời sắp đến, chị vợ anh Hy vội vã điện thoại báo cho chúng tôi biết ngay.

Máy bay sẽ chở gia đinh nguời tị nạn đến phi truờng Chicago vào hôm thứ tu, lúc muời một giờ đem. Hôm đó anh Hy bị cảm mạo, lên con sốt, thân nhiệt nóng hon một trăm độ F. Hai ông bà nguời Mỹ bảo trợ kêu điện thoại cho tôi lúc bảy giờ tối, khi tôi mới đi làm việc về.
Họ yêu cầu tôi thay anh Hy,
đi cùng họ, để đón nguời tị nạn mới tới. Bỏ tắm rửa, tôi ăn vội vã, để khởi hành lúc tám giờ ruỡi, phòng khi đuờng sá có gì bất trắc.
Ông Mỹ bảo trợ tên là Gary có vợ là bà Eva, cả hai ghé nhà tôi
để huớng dẫn và chỉ đuờng trên bản đồ. Tôi cung run lắm, vì chua bao giờ đi đến phi truờng nầy, và thấy cái bản đồ ghi chằng chịt đuờng sá đan nhau, nhu cái nùi chỉ rối.
Ông bảo tôi chạy
bám sát xe ông, nhung chua đuợc muời phút thì đa lạc nhau. Khi cách phi truờng ba muoi dặm, thì xa lộ bị tắc nghẽn, vì chiếc xe vận tải hàng hóa bị lật, gây tai nạn dính chùm. Xa lộ bị đóng hoàn toàn. Khi vào đến phi truờng, tôi bị lạc đuờng hai lần, chạy quanh mãi mới vào đuợc nhà đậu xe.
Ông bà Gary cung
đi lạc, và đến sau tôi. Tuyết roi quá dày, nên máy bay cung đến trể. Ông Gary cầm cái bảng lớn, đề tên nguời chủ gia đinh là Phan Ly, đua lên cao truớc cỗng đi ra của hành khách. Gặp dáng nguời Á Đông nào, tôi cung chăm chắm dòm kỹ. Cho đến khi hành khách không còn ai cả, thì ông bà Gary bối rối.
Ông chạy
đi hỏi hãng máy bay, họ xác nhận là có gia đinh anh Phàn trên chuyến máy bay vừa rồi. Hai vợ chồng ông Gary và tôi, cầm cái bảng đề tên anh Phàn đi quanh các ghế chờ trên phi truờng, thấy gia đinh Á Đông nào, cung chìa cái bảng tên ra truớc mặt họ, để dò hỏi. Đi quanh ba vòng, mà không tìm đuợc, ông Gary nhờ loa kêu, hỏi gia đinh anh Phàn ở đâu, cho biết để nguời bảo trợ đón về. Cung vô hiệu. Đi tìm gia đinh anh Phàn cả tiếng đồng hồ mà không kết quả, cả ba nguời chúng tôi ngồi xuống ghế nghỉ một chốc với lòng vô cùng chán nãn.
Tôi bảo hai ông bà Gary ngồi chờ, tôi cầm cái bảng tên
đi tìm một lần nữa. Tôi đi dò tìm tên từng gia đinh trên cái túi ni lông mà họ xách trên tay, của co quan ICM phát, khi họ cho muợn tiền máy bay. Tôi đến gần một anh mang cà vạt đỏ, áo vét ba mảnh bên trong, bên ngoài khoác áo bành tô bằng dạ. Tôi nhìn tận cái túi, và thấy loáng thoáng tên Phàn, tôi đánh bạo hỏi:

"Anh là Phàn phải không"

"Vâng. Tôi tên là Phàn, anh là ai?"

"Tôi đi theo hai ông bà bảo trợ nguời Mỹ đến đón gia đinh anh. Sao nãy giờ chúng tôi đi qua đây nhiều lần, đua cái bảng tên anh ra, mà anh lại ngồi im?" - Tôi nói với giọng hoi mất kiên nhẫn.

Anh Phàn chỉ vào cái bảng và nói:

"Cái bảng nầy ấy à? Thấy ông Mỹ chìa ra truớc mặt tôi ba lần, nhung đâu phải tên tôi mà nhận. Tên ông Ly nào đó mà. Tôi là Phàn."

Tôi cuời, nói nhỏ nhẹ:

"Đây là tên anh . Theo lối Mỹ, ghi tên truớc, họ sau."

"Nguợc ngạo thế thì 'bố giời' mới biết đuợc".

"Thế thì loa kêu tên anh nhiều lần, sao anh cung chẵng trả lời?"

"Nghe đuợc cái quái gì đâu?"

Tôi chợt nghi ra, nếu nguời ta có gọi tên tôi trên loa, chua chắc tôi đa nghe kịp, huống chi anh Phàn là nguời mới đến. Tôi quay lại báo tin cho hai ông bà Gary, và giải thích tại sao không tìm ra. Ông bà Gary mừng, và tôi đọc đuợc sự kiên nhẫn, chịu đựng của hai ông bà, khi đem khuya không ngủ, tuyết đổ, lái xe cả trăm đặm, đi đón một gia đinh ngoại quốc, khác màu da, khác chủng tộc, không hề bà con, không hề quen biết. Và truớc đó nữa, phải làm bao nhiêu giấy tờ, mất bao nhiêu thì giờ, tốn kém đủ thứ. Chỉ vì trái tim biết thuong nguời mà thôi.

Gia đinh anh Phàn có hai vợ chồng, năm đứa con, đứa đầu muời bốn tuổi, đứa út còn ẵm trên tay. Anh Phàn nguời da sậm, gầy ốm, cái má thóp, răng cỏ đen điu vì khói thuốc. Vợ anh thấp, trắng hon, có bề ngang. Chị mang váy đầm dạ xám, áo vét, ngoài khoác áo bành tô cứng ngắt.
Gia
đinh anh còn có một bà già mù, mang váy nâu, đầu quấn khăn mỏ quạ, răng nhuộm đen, trên mắt có che miếng vải đen, gợi tôi nhớ rõ hình vẽ trong cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thu mà ngày còn bé tôi hay đọc. Bà cụ y hệt cái hình vẽ bà già mù trong sách. Trang phục của vợ chồng anh Phàn có vẽ sang trọng hon cả ông bà bảo trợ nhiều, nhung cung không dấu đuợc vẻ quê mùa.

Hành lý đuợc chất lên cao trên bốn chiếc xe đẩy. Ông Gary , tôi, vợ anh Phàn, và cháu bé gái muời bốn tuổi, mỗi nguời đẩy một chiếc xe. Anh Phàn đi tay không thong thả, rút thuốc lá châm mồi và hút trong hành lang, nhả khói mù làm bà Eva ho sặc. ( Dạo nầy, chua có luật gắt gao cấm hút thuốc noi công cộng). Bà Eva đi dang xa ra khỏi anh Phàn, và ghé lại chiếc xe của cháu bé gái, phụ đẩy. Thấy đi mãi trong hành lang dài, anh Phàn hất đầu hỏi tôi:

"Sao không kêu tài xế lái xe vào gần đây, mà phải đi xa quá vậy?"

Tôi cuời và trả lời:

"Tài xế? Tài xế là ông Gary và tôi đây. Xe đậu trong ga-ra là noi gần nhất rồi, không có noi nào gần hon nữa".

Anh Phàn hỏi tôi:

"Anh làm tài xế cho ông bà Mỹ nầy? Luong trả có khá không?"

"Không, tôi làm việc cho công ty tu vấn. Ông bà Mỹ nầy nhờ tôi đi đón, phụ đua gia đinh anh về. Đuờng xa, anh có mệt lắm không?"

"Cung mệt, nhung chẵng can gì cả."

"Có lẽ anh nên đẩy xe giúp cho cháu bé thì hon"- Tôi nói.

"Kệ nó, để nó làm việc cho quen"

Hành lý quá nhiều, hai chiếc xe hoi không đủ chở. May mắn ông Gary gặp nguời quen, ông gởi bạn mang về nhà, hẹn ngày sau sẽ đến lấy.

Vào ngày chủ nhật đầu tiên của anh chị Phàn trên đất Mỹ, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc lớn để chào mừng và đai đồng huong. Anh Hy và tôi, mỗi gia đinh đóng bảy muoi lăm đồng làm chi phí. Chị Hy và vợ tôi trổ tài nấu ăn, rộn ràng nấu nuớng từ sáng sớm tinh suong. Anh Hy kê thêm thùng giấy làm bàn, muợn thêm ghế của các gia đinh bên cạnh. Chai ruợu nho hồng đậm đặt trên bàn bên cạnh bình hoa giả. Anh Hy và tôi lái xe đến tận nhà anh Phàn đón tất cả mọi nguời, cả cháu bé còn bế trên tay.
Ba gia đinh vui vẻ nhập tiệc. Anh Phàn kêu bà cụ già mù bằng dì. Tôi cảm phục cái tình gia đinh của anh Phàn, khi đem bà dì mù lòa đi vuợt biển. Anh Phàn uống ruợu nho nhu uống nuớc ngọt, tu một hoi hết nữa li lớn. Anh nói:

"Ruợu nầy nhạt lắm. Có đế trắng hoặc ruợu Tây mới đa miệng.

Anh Hy nghe vậy, vào bên trong lục tủ, lôi ra nữa chai Vodka, rót vào ly anh Phàn. Anh Phàn uống một hớp nói:

"Cái nầy mới thật là ruợu."

Khi đa ngà ngà, anh Phàn hăng say kể về cuộc chiến anh hùng chống Mỹ cứu nuớc của nhân dân ta. Hạ máy bay Con Ma, bắt giặc lái. Máy bay của ta núp trong mây, chờ máy bay Mỹ đến thì bắn hạ rụng nhu sung chín.
Anh kể công on bác,
đảng, văn minh tiên tiến. Những chuyện nầy, tôi đa nghe nhiều lần khi còn ở bên nhà. Chị vợ anh Hy giận, nói lớn, hỏi sao anh không ở lại với bác đảng anh hùng của anh, mà lại đi qua Mỹ làm chi.
Anh trả lời là sống với bọn
đó không đuợc, sống không nỗi, đời sống thua con chó, khoai sắn còn không có mà ăn, chứ đừng nói đến com.

Khi vợ anh Phàn khoe cái hay của ông chồng, chị nói:

"Ông nhà tôi thế chứ khảnh ăn lắm. Chỉ thích ăn quà, chứ không thích ăn com."

Chị vợ anh Hy nói:

"Sống với bác đảng, đói cho rã họng ra, ở đó mà thích quà không thích com. Nói làm sao mà tôi không hiểu chi cả."

Mỗi tuần, các bà trong hội nhà thờ đến đua vợ anh Phàn đi chợ hai lần. Họ nhờ chị Hy đi theo để huớng dẫn và thông dịch. Mỗi lần đi chợ về, thì chị vợ anh Hy cung kêu điện thoại cho vợ tôi để than vãn:

"Chị biết không, lần nào em xấu hổ muốn độn thổ quách. Chị ấy lựa những tảng thịt bò đắt tiền nhất, lấy hai ba tảng to tuớng. Lựa các thức ăn ngon nhất, đắt nhất trong chợ, chất đầy một xe cao nghệu. Em đoan chắc với chị rằng, cái bà bảo trợ chua bao giờ dám đụng đến các thứ thịt đắt tiền đó. Bà bảo trợ cứ chỉ vào thịt gà, thịt heo, mà chị ấy lờ đi. Em thấy cái mặt bà bảo trợ nhăn nhu cái bị rách. Khi trả tiền, mặt mấy bà tái ngắt vì số tiền phải trả."

Có lần vợ anh Hy khuyên vợ anh Phàn rằng, nên chọn các thức ăn có giá trung bình hoặc rẽ mà mua, vì chính ngay các bà bảo trợ, cung rất ít khi dám ăn các thứ đắt tiền đó.
Vợ anh Phàn lắc
đầu mà nói rằng, mình không trả tiền, tội gì không lựa món ngon mà ăn. Từ đó, vợ anh Hy sinh ra có thành kiến với gia đinh anh Phàn.

Các ông bà bảo trợ trong nhà thờ rất chu đáo. Mua cho các cháu bé áo quần, giày vớ, áo lót chống lạnh, áo khoác đi tuyết, sách vở, viết chì, viết màu, túi xách mang lung để đi học, ghi tên cho các cháu đến truờng. Khi họ đến thông báo cho gia đinh anh Phàn, để hẹn ngày đem các cháu đến truờng, thì anh Phàn phản đối, nhất quyết không cho cháu gái đầu muời bốn tuổi đi học. Anh lấy lý do là nhà đông con giại, cháu nầy đa lớn, cần ở nhà giữ em, làm việc vặt, giúp mẹ nấu nuớng.
Ba bà bảo trợ cố gắng giải thích, qua sự thông dịch lỏm bỏm của vợ anh Hy, rằng luật pháp ở Mỹ bắt buộc trẻ con duới muời tám tuổi phải
đi học.
Nếu không
đuợc đi học, thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm truớc pháp luật. Chị vợ anh Hy cung chỉ hiểu lo mo lời các bà, và thông dịch cho anh Phàn.
Anh Phàn cứ lắc
đầu, nhất quyết không chấp nhận lời khẩn cầu của các bà Mỹ, cho cháu lớn đi học. Các bà cứ thuyết phục mãi làm anh Phàn nỗi giận nói gằn với chị vợ anh Hy :

"Con của tôi sinh ra, tôi muốn cho nó đi học hay không là quyền của tôi. Sao các bà ấy cứ muốn xía vào chuyện riêng của chúng tôi mãi thế."

"Pháp luật bắt buộc cho trẻ con đi học. Không phải các bà muốn đâu"

"Pháp luật nào mà lạ thế? Tùy hoàn cảnh gia đinh mỗi nguời, mà cho con đi học. Nhà nuớc nào mà can thiệp vào? Đây là xứ tự do mà."

"Đúng, xứ tự do, nhung không phải cha mẹ muốn làm gì thì làm. Pháp luật bảo vệ con trẻ duới tuổi truởng thành."

"Thôi, chị đừng nói nữa, tôi đa nhất quyết rồi. Tôi đa có phuong án riêng cho gia đinh tôi. Vô ích. Chị đừng tuyên truyền tôi nửa."

Vợ anh Hy tức cành hông, muốn khóc vì không phá vỡ đuợc cái vỏ cứng rắn của anh Phàn. Chị cùng ba bà Mỹ chán nản ra về. Tối hôm đó, bà Eva điện thoại cho tôi, nhờ giải thích cho anh Phàn hiểu luật pháp Mỹ .

Tôi chua kịp kêu cho anh Phàn để giải thích, thì điện thoại reo. Anh Phàn ở đầu dây bên kia. Anh than phiền là các bà Mỹ, và vợ anh Hy cứ ép anh, buộc phải cho đứa con gái đầu đi học.
Anh nói là họ làm áp lực anh, họ vô lý. Còn bày
đặt ra là luật lệ bắt buộc để dọa anh. Nghe giọng nói của anh, tôi cung phải chùn lại, vì biết rất khó thuyết phục anh trong lúc nầy. Tôi chỉ ừ è cho qua chuyện, và giả vờ theo phe anh, mà nói :

"Anh nói đúng, mỗi gia đinh có hoàn cảnh riêng, giải quyết theo cách riêng. Không ai có quyền ép ai cả. Về luật lệ xứ nầy, thì tôi cung không đuợc rõ lắm. Hay là anh thử kêu điện thoại qua Oklahoma hỏi những nguời anh quen biết từ ngoài Bắc, mà họ đa đến xứ nầy từ lâu rồi, để biết thêm cho rõ. Biết chắc luật lệ, mà thi hành. Không ai có quyền ép mình theo ý họ, nhung mình cung không nên làm trái luật. Có gì thì anh cho tôi biết với."

Không biết anh có kêu điện thoại cho nguời quen ở Oklahoma hay không, nhung sau cùng, anh Phàn cung phải nhuợng bộ yêu sách của nhà thờ, để cho cháu gái muời bốn tuổi đi học. Anh nói rằng : "Thôi, thì tôi cung tạm thời lui một buớc, mình mới đến đây mà căng quá cung không nên. "

Các ông bà bảo trợ để anh chị Phàn nghỉ ngoi cho hoàn hồn trong hai tháng. Trời tuyết đổ bên ngoài, trong nhà đóng cửa kín mít, lò suởi mở tối đa, anh chị và bà cụ bó gối ngồi trên ghế bành . Cái máy truyền hình nhấp nhem, nói tiếng Mỹ ồn ào.
Anh Phàn bảo rằng, không
đi tù, mà cung giống nhu bị giam lỏng, bị quản chế. Ra ngoài thì trời lạnh, tuyết ngập, đi gần cung không biết đi đâu, đi xa thì không có xe cộ.

Khi hội nhà thờ muốn kiếm việc cho anh chị làm, thì anh gạt ngang. Anh nói với ông bà bảo trợ, qua thông dịch của vợ tôi:

"Chua biết nghe, biết nói chi cả chua thể đi làm đuợc."

Bà bảo trợ thuyết phục:

"Công việc cần làm, không cần nói, cung không cần nghe."

"Khi nào chúng tôi nói và nghe giỏi nhu các bà, chúng tôi sẽ đi làm việc. Gấp làm chi. Tôi cần đi học tiếng Anh cho giỏi."

Vợ tôi bảo rằng, dù anh học thêm năm ba chục năm nữa, cung không thể nói và nghe bằng họ đuợc. Đi làm việc, chỉ cần cố gắng làm.
Còn nghe và nói, thì ai cung lo mo,
nghe một phần, đoán một phần. Mình không lớn lên tại Mỹ, thì hiếm hoi lắm mới nghe và nói giỏi tiếng Mỹ. Phải vừa làm, vừa học.
Nhung anh Phàn nhất quyết rằng, chua nghe, chua nói giỏi thì chua chịu
đi làm.
Nghe vậy, mấy bà trong họ
đạo, ngày nào cung thay phiên nhau đến nhà anh Phàn dạy tiếng Mỹ. Mỗi ngày dạy bốn giờ liên tiếp. Các ông bà Mỹ tin tuởng rằng, trong vòng ít tháng, thì cả nhà sẽ giỏi tiếng Mỹ, không giỏi bằng họ, thì cung một tám một muời.
Trong những buổi học tiếng Mỹ, anh
Phàn và vợ thấy buồn ngủ khủng khiếp, cứ rán chống mắt lên, mà cái đầu cứ gục lia lịa. Anh chị uống trà đậm chống con buồn ngủ cung không hiệu quả. Anh chị thấy những buổi học nầy, nhu cực hình, nhu tra tấn, và nản lòng vô cùng.
Học
đuợc phút truớc, thì phút sau quên béng đi. Không nhớ gì cả. Anh chị kết luận, là cái óc của anh chị đa hu rồi, không thể học đuợc gì nữa. Sau một tháng dạy liên tục, các bà Mỹ cung nản lòng, bỏ lớp dần dần, và không đến dạy nữa. Kết quả vuợt bực. Anh Phàn thì chỉ ấp úng nói đuợc hai chữ "yes" và "no", vợ anh giỏi hon, nói đuợc rất ngọng thêm chữ "thank you". Vợ tôi cho rằng, các bà Mỹ không có phuong pháp su phạm, nên dạy không kết quả.

Từ đó, anh Phàn mới chấp nhận là không thể học nói học nghe cho giỏi bằng các ông bà Mỹ đuợc, và anh chị cắn răng để cho nhà thờ thu xếp việc làm cho anh chị.

Mỗi buổi sáng tinh suong, anh Hy đến chở anh Phàn đi làm, buổi chiều chở về tận nhà. Có những buổi chiều, khi tan sở, xe anh Hy là một đống tuyết khổng lồ, anh phải vất vả đao tuyết moi xe ra. Trong khi anh Hy quần thảo với đống tuyết, với nuớc mãng nuớc đá đông cứng trên kiếng xe, thì anh Phàn đứng hút thuốc lạnh lùng nhìn. Anh Hy bất bình, nhung không nói. Một lần, mệt quá, anh Hy không nín đuợc, quay qua hỏi anh Phàn:

"Anh không giúp tôi một tay dọn tuyết cho mau mà ra về?"

"Xe anh chứ có phải xe tôi đâu!"

"Nhung... anh có đi trên xe nầy không?"

"Anh lái xe mà, đâu phải việc của tôi"

Anh Hy giận lắm, im lặng, và không nói với anh Phàn trong nhiều ngày liên tiếp. Anh Hy nói với tôi rằng, vì đa lỡ nhận lời gởi gắm của bà Mỹ bảo trợ, nếu không, thì anh chẵng chở anh Phàn đi làm nữa.
Tôi an ủi anh Hy, khuyên anh
đừng giận anh Phàn, vì đồng huong còn có ai đâu, giận nhau nữa thì còn ai. Nhiều khi anh Phàn cự nự anh Hy vì đa đến đón sớm hon giờ quy định. Những khi nầy, anh Phàn rề rà cho anh Hy phải ngồi chờ thật lâu trong xe duới tuyết đổ. Có lần anh Phàn ngần ngừ hỏi:

"Tôi hỏi thật, anh đừng dấu nhé. Nhà thờ trả cho anh mỗi tháng bao nhiêu, để anh đua đón tôi đi làm ?"

Anh Hy nghe mà buồn cuời, hỏi lại:

"Anh hỏi làm chi vậy?"

"Hỏi cho biết bao nhiêu, nếu số tiền đó khá, thì tôi xin lảnh tiền, và kiếm chiếc xe đạp đi làm cung đuợc."

"Không có xu nào cả. Tôi chở anh miễn phí, vì anh là đồng huong, và vì tôi cung đa từng qua thời kỳ mới đến định cu nhu anh. Đáng ra anh phải chia tiền xăng, tiền hao mòn xe với tôi mới phải lẽ."

"Tôi không tin."

"Không tin thì anh thử hỏi mấy ông bà bảo trợ xem."

Anh Phàn cuời mui:

"Có hỏi mấy ông bà Mỹ, thì vợ anh hay anh phiên dịch. Anh chị muốn nói chi mà không đuợc. Thà đừng hỏi."

Anh Hy buồn lắm, nhung không nỡ nói nặng lời, anh chỉ thở dài:

"Năm ba năm nữa, nếu nhớ lại chuyện nầy, anh sẽ biết rõ sự thực."

Mỗi ngày, có xe nhà truờng đến tận nhà chở ba cháu bé đi học. Cháu lớn học ở truờng xa hon, hai cháu nhỏ học truờng tiểu học gần nhà. Anh Phàn nói rằng, nhờ đấu tranh gay gắt với nhà thờ về vụ cho đứa con lớn đi học, mà nhà thờ phải nhuợng bộ, bằng cách đem xe đón tận nhà, đua luôn ba đứa đi học. Chị vợ anh Hy giải thích rằng, trẻ con ở thành phố nầy, em nào cung đuợc vậy, không riêng gì các cháu con anh Phàn. Anh Phàn không tin và chỉ cuời ruồi đáp lại.

Mùa đông miền Trung Bắc nuớc Mỹ, nhu mọi ngày đông khác, tuyết đổ ngập đuờng trắng xóa. Xe cào và thổi tuyết hoạt động liên miên. Muối đuợc rải ra những con đuờng chính cho xe chạy.
Một cháu trai nhỏ con anh Phàn
đang ngồi trong lớp học, bỗng đứng dậy ôm sách vở ra về. Cô giáo cản lại. Hai bên trao đổi vài câu. Không ai hiểu ai.
Cô giáo chỉ ra sân
đầy tuyết trắng chất thành đống cao, nhu muốn nói cho em hiểu rằng không thể đi đuợc, và dắt em về lại chỗ ngồi.
Em ruom ruớm nuớc mắt, và
đứng dậy, nhất định ra về. Cản mãi không đuợc, cô giáo kêu bà hiệu truởng. Bà xuống lớp, khuyên bảo em. Hai bên cung không hiểu nhau. Bà không thể để em bé bảy tuổi ra về một mình trong gió hú, trong tuyết cao chất đầy nhu thế.
Bà cầm tay giữ em bé lại.
Em khóc lớn. Hai bà giáo nhìn nhau thất vọng, không biết phải làm gì. Bỗng bà hiệu truởng nhớ là em bé có con chị học trên nó hai lớp. Bà cho nguời đi kêu chị nó xuống.
Con chị xuống gặp
đứa em, nói vài câu. Xong, con chị nắm tay thằng em dẫn nó ra về. Hai bà giáo vội cản lại. Kéo hai em vào bên trong lớp.
Cả hai
đứa đều khóc ròng. Bà hiệu truởng dẫn hai chị em đứa bé về phòng, và kêu điện thoại cho bà Mỹ trong gia đinh bảo trợ, nhờ giúp đở. Bà bảo trợ vào truờng ngay.
Bà dắt hai chị em về lớp, hai
đứa không chịu đi, mà nhất định kéo nhau ra sân, để đi bộ về nhà.
Ba bốn cô giáo họp lại bàn cãi. Một hồi sau, bà bảo trợ theo yêu cầu của các cô giáo, chạy xe
đến công ty anh Phàn đang làm, xin cho anh đuợc tạm nghỉ, đến truờng giải quyết việc học của hai cháu.
Anh Hy phiên dịch cho anh Phàn biết, là hai cháu không chịu học, mà
đoi đi bộ giữa mua tuyết, để về nhà. Anh Phàn giận hầm hầm và nói với anh Hy : "Con cái mất dạy. Đề tôi đến cho chúng vài bạt tai, cho bớt biếng nhác."

Anh Hy vội vã níu anh Phàn lại, đặn dò: "Không đuợc, đánh trẻ con thì cảnh sát còng tay đó . Đừng dại dột." Anh Phàn hất tay anh Hy ra, và chua dứt con giận:
- "Vợ chồng anh
đuợc cái giỏi là hay hù họa tôi mà thôi. Con cái mà không đánh cho sợ, thì thành hu đốn. Dạy con từ thuỡ nên ba."
Anh Hy biết khó thuyết phục anh Phàn, bèn nói vọng theo: "Bớt nóng giận.
Đừng đánh con, tội nghiệp. Có chi thì từ tốn, dạy bảo."
Anh Hy sợ anh Phàn bị cảnh sát còng tay. Khi xe
đến truờng, anh Phàn hùng hổ, xăm xăm đi theo bà Mỹ đến gặp hai đứa con. Hai đứa bé mặt xám ngắt, trên mắt còn uớt sung lệ.
Anh lớn giọng gằn hai
đứa bé. Sau vài câu trao đổi giữa ba cha con, mặt anh Phàn dịu xuống, đến nắm tay hai đứa con, dắt chúng ra về.
Tuyết ngập trời, tuyết cao nghệu, các bà giáo cản cha con anh lại không cho
đi. Không ai cho anh dắt trẻ con đi trong mua tuyết lạnh lẽo nầy.
Anh kéo con
đi, nhung một ông giáo to lớn nhu hộ pháp đang giữ tay hai em bé lại. Các bà giáo đang vây quanh thì líu luờng xôn xao.
Anh Phàn nhìn
đám thầy cô nguời Mỹ với ánh mắt tuyệt vọng, với nét mặt anh nhăn nhúm đầy đau khổ, anh vội cúi xuống, banh quần thằng bé ra, và òa khóc lớn.
Cả ba cha con cùng khóc vang
thảm thiết. Mùi thối tha bốc lên làm ngát mui.
Mấy ông bà giáo nguời Mỹ cùng ồ lên một tiếng lớn, và cùng cuời. Họ hiểu, em bé
đa phóng uế ra cả quần.
Em
đa không biết nói sao để xin cô giáo đi ra phòng vệ sinh, và cung không biết phòng vệ sinh ở đâu, rán sức cầm cự, và khi hết chịu nỗi, thì phóng ra quần.

Mỗi buổi chiều, sau khi anh Phàn đi làm về chừng một tiếng, thì có bà Mỹ đến chở vợ anh đi làm. Mấy ông bà Mỹ xin cho chị đuợc chân rửa bát tại một khách sạn sang nhất trong tỉnh nhà. Khoảng muời giờ ruỡi đem, thì mấy bà Mỹ trong họ đạo chia phiên nhau, lái xe trong tuyết lạnh, đến chở vợ anh Phàn về nhà.
Mùa
đông tỉnh lẻ, họ ngủ sớm, muời giờ đem là đa say giấc, họ phải để đồng hồ báo thức. Vợ tôi thuờng biểu lộ sự cảm phục lòng tốt của các bà trong họ đạo. Khuya lạnh, ai mà không muốn thẳng giấc, phải thức dậy đội tuyết ra đi là một cực hình.
Có nhiều
đem, vì lý do bất khả kháng, các bà kêu tôi, nhờ đến đón chị Phàn về. Thời đó, dù sáng phải dậy lúc năm giờ, để kịp năm giờ ruỡi khởi hành, đi làm, nhung tôi vui vẻ nhận lời ngay, để cám on cái lòng tốt của các bà Mỹ, đa giúp cho nguời đồng huong của tôi. Có lần tôi bị cảm mạo, chóng mặt, mà không dám từ chối, sợ các bà cho là tôi không có lòng. Mỗi lần đi đón, thì tôi phải cào tuyết trên xe hon muời lăm phút, chờ máy nóng mới đi đuợc. Bỡi thế, nên thuờng đến trể.
Chi vợ anh Phàn giận, không vui, ngồi trên xe mà không nói một lời nào . Cả không một lời cám on, một lời chào khi
đuợc đón và khi về thấu nhà. Có lần chị nói :

"Nếu đón tôi, thì đừng đến trể. Ngồi chờ rất nản."

"Tôi đuợc các bà Mỹ kêu, nhờ đi đón chị, thì tôi đi ngay. Phải mang áo, phải cào tuyết, phải chờ xe ấm máy, nên hoi trể, chị đừng buồn. Các bà nguời Mỹ tử tế quá, đem nào cung đi đón chị trong lạnh lẽo, mua, tuyết."

"Tôi có nhờ các bà đâu. Họ bắt tôi phải đi làm việc đấy chứ. Hừ, tử tế!"

Tôi không buồn mà thuong cho chị. Có lẽ anh chị Phàn hiểu lầm rất nhiều về lòng tốt của những nguời chung quanh.

Một hôm, anh chị Phàn mời vợ chồng tôi, và vợ chồng anh Hy đến nhà, để nhờ chúng tôi một việc quan trọng. Hỏi anh chuyện gì, anh nói sẽ cho biết sau.
Anh Hy cuời nói với tôi rằng, sao cái lối nói nầy giống hệt cách thức của công an nhà nuớc cọng sản hồi truớc. Buổi chiều
đi làm việc về, có "giấy mời" tối nay ra trụ sở công an, lý do "Cho biết sau".
Cứ thế mà run, mà thắc mắc, không biết có chuyện gì, không biết có bị nhốt luôn hay không.
Ra
đi mà hồi hộp, mà dặn dò vợ con phải làm gì để sinh sống, nếu bị nhốt tù. Chúng tôi rủ nhau cùng qua nhà anh Phàn mà không phải hồi hộp, không phải lo lắng. Anh Chị Phàn cùng bà cụ đa ngồi sẵn trong phòng khách.
Họ rót nuớc trà mời chúng tôi, xem bộ trịnh trọng, không lạt lẽo nhu thuờng ngày. Sau một hồi th
ăm hỏi xả giao, anh Phàn tằng hắng nói:

"Tôi mời các anh chị đến đây, vì không còn ai có thể giúp cho chúng tôi đuợc trong hoàn cảnh câm điếc này.
Nhà thờ
đa ăn chận của gia đinh tôi mỗi tháng hon hai ngàn đô. Tôi van xin các anh chị, nói với các ông, các bà trong nhà thờ, cho chúng tôi lại số tiền đó, để tôi làm vốn, ra làm ăn buôn bán, kiếm sống, chứ đi làm cu-li cho hãng sửa tàu, cho khách sạn, thì biết bao giờ mới ngóc đầu lên nỗi? Chúng tôi van lạy các anh chị, xin giúp chúng tôi, và vì thuong các cháu nhỏ ..."

Cả bốn nguời chúng tôi bàng hoàng, không tin vào lổ tai mình. Chị vợ anh Hy ấp úng hỏi lại:

"Nhà thờ ăn chận tiền của anh chị? Mỗi tháng hon hai ngàn ? Sao? Anh nói rõ hon đuợc không?"

Anh Phàn gằn giọng, nói lớn, rõ ràng:

"Đừng vờ vinh. Gia đinh tôi có tám nguời, nhà nuớc Mỹ cấp cho, ít nhất cung trên ba ngàn bạc mỗi tháng. Cứ cho tiền chợ, tiền nhà mà mấy ông bà bảo trợ chi cho chúng tôi, chừng mấy trăm là cùng, thì cung còn hon hai ngàn đồng mỗi tháng, chứ có ít đâu. Nếu không ăn chận, thì tiền đó để đâu, vào túi ai?"

Chị vợ anh Hy tái mặt, hỏi:

"Ai nói với anh điều đó? "

"Chúng tôi biết rõ lắm, không cần ai nói cả."

Anh Hy ôn tồn giải thích rằng, anh cung đa đến đây truớc. Anh rõ thủ tục. Ban đầu hội nhà thờ thuê giúp nhà, cho tiền chợ, mua cho đủ các thứ cần dùng hàng tháng. Rồi họ kiếm việc cho mình làm. Khi đa có luong tiền, thì mình phải tự túc lấy. Đó là chính sách của nhà thờ."

Mặt anh chị Phàn và cả cụ già đều sậm lại. Giọng chị Phàn chua ngoét:

"Chúng tôi đâu có ngu. Tôi biết rõ hai ông bà Hy nầy là những con cò mồi của nhà thờ. Biết rõ đến muời muoi."

Anh Hy run lên vì giận, chị Hy thì mặt đỏ bừng, thét lên the thé:

"Làm cò mồi để đuợc cái gì? Ăn nói nhu những kẻ vô ân bạc nghia. Nói nhu vậy mà không biết tự xấu hổ sao? Giao thiệp với hạng nguời nầy thêm xấu hổ, thêm nhục nhã cho cái giống nòi mình mà thôi."

Chị Hy kéo anh chồng đứng dậy, giận dữ ra về. Anh Hy quay lại nói với anh Phàn:

"Tuần tới, ông tự kiếm lấy phuong tiện mà đi làm. Tôi không muốn làm mọi cho ông nữa."

Vợ tôi cung giận và muốn ra về theo vợ chồng anh Hy. Tôi làm dấu, bảo ngồi yên. Anh Phàn phân trần tiếp:

"Chuyện trợ cấp cho nguời mới định cu là luật của nhà nuớc Mỹ. Rõ ràng, không ai chối đuợc. Chúng tôi đa biết rõ từ hồi còn ở trại tị nạn Hồng Kông. Nay nhà thờ ăn chận tiền, rõ ràng thế, mà còn chối loanh quanh."

Tôi thấy tội nghiệp cho vợ chồng anh Phàn, vì hiểu lầm, nên có nhiều suy nghi và hành động đáng tiếc. Tôi cung không dám nói thẳng là anh đa hiểu lầm luật lệ.
Biết là khó mà giải thích cho gia
đinh anh Phàn hiểu, không chừng càng giải thích, thì càng gây thêm nhiều ngộ nhận khác. Tôi ngồi im một lúc suy nghi. Anh Phàn nói tiếp :

"Bây giờ chỉ còn hai anh chị. Tôi nhờ anh chị 'báo cáo' lại cho nhà thờ những đoi hỏi chính đáng của gia đinh chúng tôi. Chúng tôi kiên quyết đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng."

Vợ tôi nghe cái giọng điệu giống hệt những anh cán bộ trong các buổi học tập chính trị bên nhà, thì phì cuời, hết giận. Vợ tôi nói:

"Xem bộ mấy ông mấy bà trong họ đạo nầy du công rỗi nghề gớm nhỉ. Mình ở xa ngàn dặm, không bà con, không quen biết, không ân nghia, không nợ nần, lại nai lung ra bảo lảnh mình vào đây, cho nhà ở, cho com ăn, cho áo mặc, lo cho đủ thứ.
Lại bị ghét bỏ, thật
đáng đời. Của nợ giữa đuờng mà mang cõng lên lung. Anh chị xem, không biết họ bảo lảnh cho mình, thì đuợc lợi lộc gì nhi ? "

Hai vợ chồng anh Phàn cùng nói lớn một lúc, với giọng chắc nịch:

"Để lập thành tích chứ để làm gì. Ai mà không biết."

Vợ tôi bật cuời ha hả và nói tiếp:

"Đúng. Lập thành tích dâng lên đảng !"

Tôi ôn tồn bảo vợ tôi đừng đua nghịch. Tôi hứa sẽ cố gắng giúp hai anh chị Phàn và gia đinh. Chữ hứa của tôi, trong thâm tâm, là hứa cố gắng giúp anh chị giải tỏa những hiểu lầm đáng tiếc, nhung có lẽ anh chị Phàn tuởng là tôi sẽ đến nhà thờ đoi tiền "ăn quỵt" giúp cho anh chị.

Chúng tôi về, ghé lại nhà anh chị Hy. Anh chị Hy chua nguôi giận. Chị vợ anh Hy nói:

"Chúng nó là thứ vô ân bạc nghia, không biết đạo lý làm nguời. Khi nào cung ngoác miệng ra nói lời dóc lác, đao to búa lớn, nào là đấu tranh, nào là thắng lợi, kiên quyết. Nghe mà ngứa lỗ tai, chịu không nỗi."

Vợ tôi nói:

"Họ còn cho rằng, nhà thờ muốn lập thành tích nên bảo lảnh họ đến đây."

Anh Hy phì cuời, nói:

"Mấy ông bà trong họ đạo mà nghe câu nầy, chắc tức mà hộc máu chết hết không còn một mống. Thôi, anh chị cung nên tránh xa gia đinh anh Phàn, để tránh bực mình và rắc rối về sau. Những hạng nguời nầy, không choi đuợc."

Tôi nói:

"Thôi, anh chị bớt giận. Tất cả cung do hiểu lầm. Nguời ngoài, không cùng màu da, không cùng dòng giống, mà họ còn tận tình giúp đở. Mình không giúp nhau, thì làm sao cho lòng yên ổn đuợc."

"Nhung họ nói cái giọng khó nghe của 'bọn dân tộc anh hùng', ngứa tai chịu không nỗi."

Tôi dịu giọng:

"Họ cung là nạn nhân dài hạn của chế độ CS. Họ còn đáng thuong hon chúng ta nữa, vì chịu đa chịu đựng chế độ lâu dài hon hai muoi mấy năm. Nếu chúng ta sống trong hoàn cảnh đó, đuợc giáo dục theo lối đó, thì không chừng chúng ta tệ hại hon anh chị Phàn bây giờ. Anh chị đừng buồn nữa.
Thứ hai nầy, anh cứ đến chở anh Phàn đi làm nhu thuờng nhé. Chúng ta không thuong nhau, thì ai thuong chúng ta đuợc?"

Anh Hy im lặng. Chúng tôi ra về. Không biết nghi sao, vào tối chủ nhật, anh Hy nhờ tôi điện thoại báo cho anh Phàn biết là sáng thứ hai, sẽ đến đón anh Phàn đi làm nhu thuờng lệ.
Tôi nghe mà mừng. Nhung anh Hy và anh Phàn vẫn còn buồn nhau. Cùng
đi cùng về mà giữ im lặng, không nói một lời.
Sau nầy, anh Phàn nói với tôi rằng: "Bố bảo, thằng Hy cung không dám thôi
đua ruớc tôi đi làm. Nó còn phải rình mò, dò xét tôi, để báo cáo cho nhà thờ nữa chứ."

Mỗi sáng Chủ Nhật, các ông bà Mỹ đến chở toàn gia đinh anh Phàn đi nhà thờ xem lễ. Với ý nghia làm on, làm phuớc, cứu vớt linh hồn của một gia đinh ngoại đạo tội nghiệp, chua biết đến danh Chúa Trời, đem on phuớc đến cho họ.
Nhung gia
đinh anh Phàn cắn răng chịu đi nhà thờ, là để làm on cho các ông bà Mỹ, làm họ vui lòng, may ra họ nghi lại mà trả lui số tiền họ đa ăn chận.
Chứ
đến nhà thờ, theo anh Phàn nói, chỉ nghe xi-lô xi-la không biết họ nói gì, buồn ngủ lắm, ngồi lâu mỏi lung, tê chân.
Anh Phàn nói với tôi rằng: "Mấy ông bà Mỹ sang trọng, giàu có nầy, nhung keo kiệt không ai bằng. Mỗi khi lễ xong, có nguời cầm cái vợt
đi thu tiền, tôi thấy họ chỉ cúng vào vợt tờ bạc một đồng thôi.
Để
cho họ xấu hổ, nhục nhã, khi nào tôi cung bỏ vào vợt muời đồng." Tôi chỉ cuời, không dám có ý kiến.

Một hôm anh Phàn lội tuyết qua nhà tôi vào buổi tối, đem tặng một gói trà Tàu bèo nhèo mà anh đa mua từ Hồng Kông. Sau một vài câu chuyện vu vo, anh lôi trong túi ra một xấp điện tín có muời bốn tờ, đua cho tôi xem, và hỏi những món hàng ghi trong điện tín có thể mua ở đâu, làm sao tìm ra tiệm bán giá rẻ.
Tôi lật từng trang
điện tín từ Hải Phòng, Hà Nội. Móng Cáy điện qua, do nhiều nguời khác nhau đánh đi, yêu cầu gởi những món đồ gia dụng nhu máy nghe nhạc, máy chụp hình, xe đạp đua, vải vóc, bột ngọt, thuốc trụ sinh và những món linh tinh khác nữa. Anh nói :

"Bên nhà tuởng tôi qua đây đi ăn cuớp tiền của thiên hạ anh ạ. Tiền đâu mà đoi hỏi đủ thứ nhu thế nầy? Tôi cung nhức đầu về mấy cái điện tín và tho từ liệt kê dài lòng thòng các món hàng họ đoi hỏi. Điên lên đuợc đấy chứ ."

Tôi an ủi anh:

"Bên nhà họ khổ quá, mình giúp đở đuợc ít nhiều chi, thì giúp trong khả năng của mình. Anh lo buồn làm chi cho khổ tâm vô ích."

"Nguời ta tuởng qua đến Mỹ là hốt tiền thiên hạ nhu hốt lá vàng. Mỹ nó ngu cả hay sao? "

Tôi hứa khi nào rảnh, sẽ lái xe đua anh lên Chicago, tìm các tiệm bán hàng cần thiết để anh dò hỏi giá cả. Anh hỏi vay tôi năm trăm đồng, có tiền lời muời phân, và sẽ hoàn trả lại khi lảnh đuợc tiền trợ cấp. Tôi cuời bảo anh:

"Để tôi bàn lại với vợ tôi, thuyết phục vợ cho anh vay. Vì hầu bao trong gia đinh do các bà nắm giữ, và giữ chặt lắm. Mỗi ngày tôi phải ngữa tay xin tiền quà, tiền xăng. Và nếu có cho anh vay, thì cung không dám lấy lời. Ở Mỹ mà cho vay cắt cổ, thì cung dễ vác chiếu ra tòa lắm."

"Tiền lời là do tôi đề xuất, và bằng lòng, chứ anh có ép tôi đâu? Anh tự quyết định cho tôi vay không đuợc sao? Các anh yếu đuối quá, anh Hy cung vậy, để cho vợ lấn luớt, qua mặt. "

Tôi cuời, nói đua:

"Đan ông miền Nam chúng tôi không đuợc dung cảm nhu các anh Ha Noi. Mà khi ở trên đất Mỹ nữa , thì chúng tôi càng xìu nhu sợi bún thiu."

Làm việc đuợc bốn tháng, anh Phàn bỏ việc mà không thông báo cho công ty, nên anh bị sa thải. Mấy nguời bảo trợ trong nhà thờ đến nhà anh tìm hiểu sự việc để giúp đở. Họ kêu vợ chồng anh chị Hy đi thông dịch, nhung anh chị Hy từ chối. Họ đến nhờ vợ tôi. Nhóm nhà thờ gồm năm ông bà, đi hai xe. Họ hỏi lý do thôi việc. Anh Phàn lừng khừng đáp:

"Không muốn làm việc nữa, thì nghỉ."

"Thế anh đa kiếm ra việc làm khác chua ?"

"Chua"

"Không có việc làm, lấy tiền đâu chi tiêu, thuê nhà, ăn uống?"

"Tôi không biết!"

"Tại sao anh không muốn làm việc đó nữa? Có vấn đề gì không? "

"Không có vấn đề chi cả. "

"Anh có muốn nhà thờ tìm việc khác cho anh không?"

"Chua muốn. Khoan đa."

Mấy ông bà trong nhà thờ lắc đầu, nhìn nhau, rồi nhìn anh Phàn với ánh mắt thuong hại. Các ông bà hỏi, bây giờ anh muốn gì không?
Anh nhờ vợ tôi nói, là muốn nhà thờ
trả lại cho anh số tiền hon hai muoi ngàn mà họ đang giữ giúp, để anh tính kế làm ăn.
Vợ tôi tái mặt, không biết phải nói làm sao,
để hội nhà thờ không bất bình. Ngập ngừng, vợ tôi nói trại ra rằng, anh Phàn tha thiết muốn biết những chi phí của nhà thờ đa chi tiêu cho anh, và ai đa đóng góp bao nhiêu, quỷ nhà thờ bao nhiêu, và nhà nuớc cho bao nhiêu, để anh tri ân họ.
Các ông bà khoát tay, bảo là không cần thiết,
đừng nghi đến, đừng thắc mắc. Vợ tôi năn nỉ, nói rằng, nếu không đuợc biết những điều đó, thí anh Phàn cứ thắc mắc mãi, không yên tâm để làm ăn. Các ông bà cuời sung suớng, thoải mái.

Cuộc đấu tranh kiên cuờng của anh Phàn gần thành công mà anh không biết. Khi nhà thờ thấy anh chị đều thôi việc, không chịu đi làm nữa, họ cung quýnh lên, lo lắng lắm.
Họ
đạo cung nghèo, tín hữu cung không giàu có chi, không thể đai thọ dài ngày cho cái gia đinh đông đảo nầy đuợc. Các ông bà bảo trợ chịu thua, định ngày đem gia đinh anh Phàn lên sở xã hội xin trợ cấp của quận hạt.
Nhung anh Phàn loan báo rằng, anh sẽ dời nhà về Oklahoma City.
Cả họ đạo thở phào. Anh Phàn có nhiều bạn bè quen biết trong trại tị nạn cu, họ đa định cu ở Oklahoma, và biết rành mạch cách xin trợ cấp xã hội.

Anh Phàn nhờ tôi mua vé máy bay cho cả gia đinh về Oklahoma City, đồng thời dàn xếp xe cộ để chở anh chị ra phi truờng.
Ông Gary và bà Eve hứa thuê một chiếc xe có thùng sau lớn,
để chở hành lý cồng kềnh của gia đinh anh. Tôi và anh Hy, hai xe sẽ chở nguời trong gia đinh.
Anh Phàn nói nhỏ với tôi rằng,
truớc khi đi anh sẽ đốt căn nhà để trừ vào số tiền nhà thờ đa ăn quịt của anh. Ăn của ai thì đuợc, ăn của anh thì nuốt không trôi đâu.
Tôi can gián, và dọa anh rằng FBI của Mỹ giỏi lắm, thế nào họ cung
điều tra ra. Và tội chi đi tù cho khổ thân, con cái không ai nuôi. Mình đến đây, đời sống còn dài, còn sức thì còn làm ra tiền. Vã lại, có đốt căn nhà, mình cung không đuợc đồng xu nào, chua chắc đa hả đuợc cái tức tối, mà mua thêm lo lắng vào thân.
Lỡ cháy lan qua nhà lân cận, thì thêm tội nghiệp những nguời láng giềng tốt của anh.
Anh nói rằng, nếu không
đốt đuợc nhà, thì truớc giờ đi, anh sẽ phá cho tan tành, đập vỡ bồn cầu, nhà tắm, bẻ ống nuớc, phá tủ lạnh, đập bếp.
Tôi cuời bảo rằng, anh cứ lo
đi truớc, sau khi anh đến Oklahoma rồi, tôi sẽ thay anh làm các việc đó. Đừng làm sớm, mà họ giữ anh lại, không đi đuợc, mất toi tiền máy bay.

Ngày anh Phàn ra phi truờng, tôi và anh Hy xin nghỉ việc, thay phiên nhau đến nhà anh, lấy cớ là phụ soạn hành lý, nhung thật tâm là để ngăn cản anh phá hoại căn nhà.
Khi cả nhà lên xe hết, anh Hy chạy vào một vòng bên trong nhà, xem có gì hu hại không. Anh Hy ra xe và
đua hai ngón tay lên làm một vòng tròn, cho tôi biết là mọi sự tốt đẹp. Tôi thở phào.

Trong khi chờ máy bay, anh Phàn nhờ tôi nói với ông Gary và bà Eva rằng, qua Oklahoma, anh sẽ gời tiền, mua vé máy bay, mời cả họ đạo của ông bà qua choi, anh sẽ bao tiền ăn ở, bao tất.
Tôi dịch khác
đi, nói là anh biết on hai ông bà lắm, và không bao giờ quên cái on bảo bọc lúc ban đầu nầy. Hai ông bà nghe xong cảm động, ôm chầm lấy anh chị mà nói cám on rối rít. Anh Phàn thì tuởng hai ông bà mừng vì đuợc anh hứa cho vé máy bay, cả họ đạo sẽ đuợc đi choi.

Khi đua gia đinh anh ra máy bay, chúng tôi ôm nhau thân thiết, và mắt anh Phàn cung ruom ruớm, nói nhỏ với tôi, giọng run run rằng, thôi đừng phá căn nhà nữa. Tôi gật đầu.

Đua gia đinh anh Phàn đi rồi, anh Hy nói với tôi rằng: "Thế mà tôi cung thấy buồn, trống trải, nhu mất mát một cái gì đó. Bây giờ chỉ còn hai gia đinh mình trong thành phố nầy thôi.". Trong lòng tôi cung thấy buồn.

****

Muời sáu năm sau, kể từ khi đua gia đinh anh Phàn về Oklahoma, tôi tình cờ gặp lại anh trong một tiệc cuới tại Houston, Texas. Anh nhận ra tôi, mà tôi không nhận ra anh.
Vì bây giờ anh mập mạp, trắng hồng,
ăn mặc chững chạc, không còn dáng quê mùa nhu xua. Chị vợ anh thì sang trọng trong bộ áo kim tuyến lóng lánh, nhu cô ca si.
Anh ôm chầm lấy tôi, hỏi có còn nhớ ra anh là ai không. Anh nói: "Phàn
đây, Phàn ở Morris, Illinois đây mà." Tôi cung mừng vui gặp lại nguời quen biết xua.
Anh xin chuyển bàn,
để vợ chồng anh ngồi cạnh chúng tôi mà hàn huyên. Anh cho biết ở Oklahoma đuợc hai năm, thì dọn về Houston, bây giờ cả hai vợ chồng đều làm việc cho một hãng sản xuất đồ nhựa.
Suốt hon muời mấy n
ăm anh làm hai việc toàn thời gian, mỗi đem chỉ ngủ năm sáu giờ thôi. Ngày nghỉ thì đi sửa chửa nhà cửa, ống nuớc. Hai cháu gái lớn đa có gia đinh. Cháu trai kế thì vừa tốt nghiệp đại học. Bây giờ anh chị Phàn có ba căn nhà, một căn để ở, hai căn cho thuê.

Tôi mừng cho anh. Anh nói với giọng thành thật:

"Hồi mới qua, chắc anh chị buồn chúng tôi lắm. Nhiều năm sau tôi còn ân hận, và xấu hổ vì chuyện xua. Bị thông tin sai lạc, tôi hiểu lầm, làm nhiều chuyện lố lăng, kỳ cục, bậy bạ.
Lại
ăn nói ngang nguợc. Tôi nhớ on anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng đuợc chúng tôi, mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mui. Càng lâu, tôi càng thấm thía cái câu ' Bầu bí một giàn' của anh Hy nói ngày xua."

Chị vợ anh Phàn cuời vui vẻ, nói tiếp:

"Ông nhà tôi thay đổi nhiều lắm rồi. Nhung không bỏ đuợc cái phét lác đa ăn sâu vào máu. Cứ một tấc thấu trời."

Chúng tôi cùng cuời với nhau. Tôi nói đua:

"Nếu phét lác mà không hại đến ai, thì cứ để anh phét lác cho suớng cái miệng. "

Anh Phàn ôm lấy vai tôi và lắc lắc, cuời vui vẻ.

Tác giả: Tràm Cà Mau
=================
"Vì lợi ích muời năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng nguời" bác Hồ đa trồng đuợc những thứ tham lam, vô liêm si, vong ân bội nghia, các loại cây chùm gởi, những con ký sinh trùng, những CON (thú) CS ...
Nhung sau một thời gian ở với loài nguời, cái phần NGUỜI cung dần dần xuất hiện noi cái CON (thú) CS!
Trăm năm Bác, Đảng trồng nguời
Khỉ trình phuong án, đuời uoi giảng bài!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét