Thưa
quý bạn, Bạc Liêu là một tỉnh nhỏ ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long nhưng có nhiều chuyện nổi tiếng, như về lúa gạo, về muối, về nhãn,
về... Công tử Bạc Liêu (1900-1973) trong thời Pháp thuộc, về vụ án Đồng
Nọc Nạn của những năm 1928-1930, và về ngôi nhà thờ họ Tắc Sậy với sự
linh ứng của Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, mà gần đây cả trong
nước lẫn ngoài nước ai cũng biết.
Tôi
không
phải là người Công giáo, hơn nữa lại là một giáo viên (ngày trước gọi là
giáo sư trung học) có đầu óc khoa học và ưa chuộng thực tế hơn là những
sự tin tưởng mang tính siêu hình. Tôi đã từng dạy học tại Bạc
Liêu suốt 6 năm trời (1965-1971) và học trò của tôi tại các huyện Vĩnh
Lợi, Vĩnh Châu, Phước Long, Giá Rai v.v... đông lắm, chúng tôi thường
xuống dưới đó chơi. Tôi rất quen thuộc với cái huyện (ngày trước gọi là
quận) Giá Rai có ngôi nhà thờ nhỏ tí Tắc Sậy lợp tôn, nằm bên cạnh lộ
sau khi đi qua ngôi chợ cũng nhỏ như vậy của thị trấn Hộ Phòng - thị
trấn của huyện Giá Rai - khoảng một cây số.
Bây
giờ, trong thời buổi CS này, nhà thờ Tắc Sậy tự nhiên nổi tiếng do sự
linh thiêng “ai đến khấn nguyện điều gì đều được” của Cha Diệp. Có điều
tôi muốn thưa với quý bạn rằng Nhà thờ Tắc Sậy huyện Giá Rai thuộc tình
Bạc Liêu chứ không phải thuộc tỉnh Cà Mau. Tất cả các tài liệu đều ghi
Bạc Liêu nhưng dân chúng thường nói Ca Mau bởi vì sau năm 1975, khi Cha
Trương Bửu Diệp bắt đầu nổi tiếng thì Bạc Liêu thuộc về Cà Mau, kết hợp
với tỉnh Cà Mau thành tỉnh Minh Hải,
người ta quen gọi là Cà Mau chứ ít khi gọi là Minh Hải. Ngoài ra, Nhà
thờ Tắc Sậy nằm trên đường Bạc Liêu đi Cà Mau, cách Bạc Liêu 37 cây số
trong khi chỉ cách Cà Mau có 20 cây số nên mọi người dễ bị lầm.
Quý
bạn hỏi vậy thì đối với những chuyện đồn đại, bản thân Đoàn Dự tin hay
không tin? Tôi xin trả lời rằng tôi không dám nói tin hay không tin,
nhưng theo tôi
nghĩ, Nhà thờ Tắc Sậy là một ngôi nhà thờ rất nhỏ - nhỏ không thể nào
nhỏ hơn được nữa - lại nằm trong một thị trấn cũng nhỏ, đồng không mông
quạnh, ở phần gần như cuối cùng đất nước, cách Sài Gòn tới hơn 300 cây
số, vậy mà nay được xây dựng thành một cơ
ngơi to lớn, hiện đại, nguyên tiền xây cất đã hơn 59 tỉ đồng, tức gần 3
triệu đô-la, ấy là chưa kể các pho tượng 12 vị thánh tông đồ lớn gấp 2
hay 3 lần người thật, toàn bằng gõ đỏ tức loại gỗ quý hiện nay không còn
có ở Việt Nam (nhưng còn có ở Campuchia và Lào) mà theo tôi biết, giá
mỗi pho tới vài trăm triệu đồng, vậy thì tiền “nội thất” cũng tới hàng
triệu đô-la. Toàn là do khách thập phương, lương cũng như giáo,
nhất
là Việt Kiều tại các nước gửi tới tạ ơn cả. Phải có cái gì đó thiêng
liêng và đầy tin tưởng người ta mới dâng hiến lên Cha như thế! Mặt khác
tôi cũng nghĩ, khi bị bắt cùng với 70 người vừa chức sắc vừa giáo dân
trong họ đạo, Linh mục Phanxicô Trương Bửu Diệp đã hy sinh tính mạng của
mình để cứu họ. Sau khi qua đời, ngài hiển linh ban ơn cho người này
người kia, “ai xin thì cũng đều được”. Rồi bây giờ mọi người dâng lễ tạ
ơn ngài, biến ngôi nhà thờ nhỏ xíu của ngài thành nơi khang trang, hiện
đại. Tất cả những việc đó đều là tình người. Đối với tôi, bất cứ cái gì
thuộc về tình người đều đáng ca ngợi.
Quý
bạn cũng hỏi những chuyện về Cha Diệp thì ai cũng biết, tại sao tôi còn
thuật lại? Xin thưa, tính tôi vẫn thế, không kể thì thôi, đã kể là rất
chi tiết. Tôi sợ quý bạn tuy biết nhưng biết từng mảng, không thành hệ
thống. Bây giờ tôi xin tường thuật từ đầu đến cuối thật rõ để quý bạn
hiểu, xin mời quý bạn xem xét...
* * *
Tiểu sử Linh mục Trương Bửu Diệp
Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp sinh ngày 01-01-1897, một tháng sau được Cha Giuse Sớm rửa tội ngày 02-02-1897 tại họ đạo Cồn Phước, nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Cha ngài là Micae Trương Văn Đặng. Mẹ ngài là Lucia Lê Thị Thanh. Gia đình sinh sống tại họ đạo Cồn Phước tỉnh An Giang.
Năm
1904, lúc ngài 7 tuổi thì mẹ mất. Cha ngài dời gia đình lên Battambang
bên Campuchia, sinh sống bằng nghề thợ mộc.
Tại đây, thân phụ ngài tục huyền với bà Maria Nguyễn thị Phước, sinh năm
1890, quê gốc tại Mỹ Luông, Chợ Mới, An Giang. Kế mẫu đã sinh cho ngài
người em gái tên là Trương thị Thìn (1913), hiện còn sống tại họ đạo Bến
Dinh, xã Tân Hòa, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.
Năm
1909, cha Phêrô Lê Huỳnh Tiền gửi ngài vào Tiểu chủng viện Cù lao
Giêng, xã Tấn Mỹ, Chợ
Mới tỉnh An Giang. Học xong tại Tiểu chủng viện, ngài lên Đại chủng viện
Nam Vang, Campuchia, (lúc đó các họ đạo An Giang, Châu Đốc, Hà Tiên
trực thuộc giáo phận Pnom Penh, Campuchia).
Năm
1924, sau thời gian tu học, ngài được thụ phong linh mục tại Nam Vang
dưới thời Đức Cha Chabalier người Pháp. Lễ vinh quy và mở tay được tổ
chức tại nhà người cô ruột là bà Sáu
Nhiều, tại họ đạo Cồn Phước.
Từ
năm 1924-1927, ngài được bề trên bổ nhiệm làm Cha phó họ đạo Hố Trư,
một họ đạo của người Việt sinh sống tại tỉnh Kandal, Campuchia. Từ năm
1927-1929, ngài về làm giáo sư tại Tiểu chủng viện Cù lao Giêng tỉnh An
Giang.
Tháng
03 năm 1930, ngài về trông nom họ đạo Tắc Sậy, quận Giá Rai, tỉnh Bạc
Liêu. Trong những năm làm cha sở, ngài quan hệ, giúp đỡ, thành lập nhiều
họ đạo khác tại các vùng phụ cận như: Bà Đốc, Cam Bô, An Hải, Đầu Sấu,
Chủ Chí, Khúc Tréo, Đồng Gò, Rạch Rắn.
Hoàn
cảnh xã hội nhiễu nhương những năm 1945-1946, chiến tranh loạn lạc, bà
con nhân dân di tản, Cha Bề Trên địa phận Bạc Liêu là Phêrô Trần Minh Ký
và cả các cha người Pháp cũng khuyên ngài lên Bạc Liêu lánh mặt, khi
nào tình hình yên ổn thì sẽ trở lại họ đạo Tắc Sậy, nhưng ngài trả lời:
“Tôi sống giữa đàn chiên và nếu có chết cũng chết giữa đàn chiên, không
đi đâu cả”.
Ngày
12-03-1946, ngài bị bắt cùng với trên 70 chức sắc và giáo dân tại họ
đạo Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt tại lẫm lúa nhà ông giáo Sự ở Cây Dừa.
Người ta định giết tất cả nhưng ngài nói chính ngài là chủ chăn các con
chiên đó, vậy xin chết thay cho các con chiên của ngài. Họ chấp nhận.
Mọi người được thả còn ngài thì bị đem đi thủ tiêu.
Những
người trong họ đạo kể rằng đêm hôm ấy ngài về báo mộng cho các vị chức
sắc trong họ đạo biết chỗ họ ném xác ngài, trong cái ao nhà ông giáo Sự.
Các vị đến nơi được báo mộng thì vớt được xác ngài đã bị chặt đầu với
một vết chém ngang cổ chỗ gần mang tai, có ba vết chém khác trên mình.
Thân xác ngài không hiểu sao bị lột hết quần áo, trần trụi như Chúa
Giêsu trên thập giá, nhưng hai tay vẫn chắp trước ngực như đang cầu
nguyện và nét mặt ngài vẫn bình thản, không có vẻ gì sợ hãi.
Các
vị chức sắc lén đưa xác ngài về chôn bí mật trong phòng thánh nhà thờ
Khúc Tréo (nhà ông giáo Sự thuộc họ đạo Khúc Tréo, làm thế kín đáo hơn
đưa về Tắc Sậy). Như vậy ngài đã tử vì đạo vào ngày 12 tháng 03 năm
1946, nhằm ngày mồng 09 tháng 02 năm Bính Tuất.
Hăm
ba năm sau, tức năm 1969, hài cốt ngài được cải táng, di dời về Nhà thờ
Tắc Sậy, nơi ngài đã làm chủ chăn trong 16 năm và là cha sở thứ nhì của
họ đạo Tắc Sậy.
Hai
mươi năm sau nữa, tức năm 1989, ngôi mộ của ngài được trùng tu thành
một ngôi nhà mộ nho nhỏ lợp tôn ở phía sau Nhà thờ Tắc Sậy cũng nhỏ như
vậy và khánh thành vào ngày 04-06-1989.
Đầu
năm nay, 2010, một ngôi nhà mộ cực kỳ khang trang và hiện đại đã xây
dựng xong, hài cốt ngài được di chuyển vào đó
với lễ cải táng rất long trọng do đức Giám Mục địa phận Cần Thơ chứng
kiến. Ngày nào cũng có các tín hữu ở khắp mọi nơi trong nước cũng như
ngoài nước, bên lương cũng như bên giáo, tới thăm viếng, khấn nguyện và
tin tưởng vào sự linh ứng của ngài.
Chuyện một số phép lạ của Cha Bửu Diệp
Hiện
nay, tuy Giáo hội Công giáo chưa xét phong Thánh cho Cha Bửu Diệp,
nhưng trong lòng nhiều tín hữu Công giáo, kể cả một số người thuộc các
tôn giáo khác, đã coi Cha như một vị Thánh, vì rất nhiều người khấn xin
với ngài và được ngài ban cho như ý. Tại các nhà thờ Công giáo trong
nước, rất nhiều giáo dân xin lễ tạ ơn ngài. Đặc biệt, nhiều người không
phải tín đồ Thiên Chúa giáo cũng rất kính mến, tin tưởng ở
ngài.
Những tấm bảng tạ ơn Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp được gắn trên tường
trong căn phòng nguyện tại Nhà thờ Tắc Sậy nhiều không biết bao nhiêu mà
kể.
Theo
chúng tôi được biết, ở bên Mỹ, cụ Joan Baotixita Võ Hữu Hạnh, một nhà
văn lớn tuổi, đã sáng lập “Hội những người con của Cha Trương Bửu Diệp”.
Theo cụ, Cha Trương Bửu Diệp đã ban phép lạ cho nhiều
người, cả lương cũng như giáo. Sau đây là một số chuyện về các phép lạ
đó, bởi vậy tiếng tăm về ngài ngày càng lừng lẫy.
Chuyện gia đình ông Lâm ở Lâm Đồng, Đà Lạt:
Ông
bà Lâm không phải tín đồ Thiên chúa giáo và chuyện này đã diễn ra năm
1977, do chính ông Lâm kể cho ông Ngọc Quang nghe, ông Ngọc Quang ghi
lại trên tập san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, do cụ Võ Hữu Hạnh chủ trương.
“Bà
Lâm bị bệnh viêm ruột và đau dạ dày từ lâu, bệnh đã trở thành vô phương
cứu chữa. Bác sĩ tại các bệnh viện ở Sài Gòn đều bó tay. Ông Lâm đành
đưa vợ từ Sài Gòn về Lâm Đồng để bà sống những ngày cuối cùng của mình.
Giữa
lúc gia đình vừa đưa bà Lâm về tới nhà thì có một vị khách đi đường xa,
xe
bị hư, trong khi chờ tài xế sửa, ghé vào thăm. Khách là một người cao
lớn, khỏe mạnh, gương mặt chữ điền, hàm râu cánh én, vẻ người phúc hậu
với bộ áo dài đen của linh mục.
Ông
Lâm vốn tính tình hiền lành, thường rất tôn trọng các vị tu hành, dù
lương hay giáo. Mặc dầu nhà đang bận rộn vì vợ bệnh nặng nhưng ông cũng
lịch sự tiếp đón khách. Vị linh mục
tinh ý hỏi tại sao nét mặt gia chủ có vẻ buồn rầu. Ông Lâm nói thật là
vợ bệnh nặng, mới đưa từ Sài Gòn về nhà chờ chết. Vị linh mục nói rằng
lúc trước mình cũng bị bệnh nặng như vậy, nhờ một ông bác sĩ tên Hữu cho
uống loại thuốc này khỏi bệnh, bây giờ còn dư lại mấy viên. Cha lấy
trong túi áo ra ba viên thuốc trao cho ông Lâm và dặn chiều cho bà uống
một viên, tối lúc 10 giờ một viên và sáng hôm sau một viên nữa, thế nào
cũng khỏi. Ông Lâm tuy không tin lắm nhưng trong lúc tuyệt vọng, ai bảo
sao cũng đành nghe vậy. Giữa lúc ấy người tài xế vào thưa xe đã sửa
xong, vị linh mục bèn từ giã chủ nhà ra đi. Chủ nhà cảm ơn Cha và hỏi
cho biết Cha ở đâu, vị linh mục nói mình trông coi xứ đạo Tắc Sậy? tỉnh
Bạc
Liêu.
Sau
khi uống viên thuốc thứ nhất vài giờ, bà Lâm cảm thấy bớt đau, trong
mình dễ chịu, biết đói và thèm ăn, ngủ ngon. Buổi tối, khoảng chừng 10
giờ, tự nhiên bà thức giấc và nhớ lời Cha dặn, bèn uống thêm viên thuốc
thứ hai. Sáng hôm sau thức dậy, bà thấy trong người khỏe khoắn, không
còn mệt mỏi và đau đớn như trước. Bà sung sướng báo tin cho chồng hay.
Ông Lâm mừng quá bèn đem viên thuốc còn lại đến các tiệm để làm mẫu, mua
thêm cho chắc ăn. Nhưng ông đi khắp nơi, kể cả các tiệm thuốc Tây lẫn
thuốc Bắc, song chẳng ai biết đó là thuốc gì. Ông đành trở về, cho bà
uống nốt viên còn lại và định có dịp sẽ xuống Minh Hải (năm 1977, hai
tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau bị sáp nhập lại với nhau thành tỉnh Minh Hải)
thăm Cha và nhờ Cha nói với ông “bác sĩ Hữu” bán thêm giúp.
Muốn
đi từ Lâm Đồng xuống Cà Mau thì phải về Sài Gòn, xuống Cần Thơ, qua Sóc
Trăng rồi mới tới Bạc Liêu, và Hộ Phòng là thị trấn của huyện Giá Rai
tỉnh Bạc Liêu, cách thị xã Bạc Liêu 37 cây số, nơi có Nhà thờ Tắc Sậy.
Việc giao thông lúc ấy rất khó khăn, phải xếp hàng từ khuya ở Bến Xe
Miền Tây để mua vé xe, có khi xếp hàng cũng không mua được vé, đường đi
lại lồi lõm, hết sức cực khổ. Bà Lâm mới khỏi bệnh, khó chịu đựng nổi
với những chiếc xe cà rịch cà tàng, cổ lỗ đó. Đang lúc ông Lâm lo âu thì
có người cháu làm trong cơ quan nhà nước đến chơi, cho biết anh ta sắp
đi công tác tại Minh Hải để giao dịch mua lương thực cho tỉnh. Ông Lâm
mừng quá, bèn nói với cháu cho
đi nhờ xe xuống Tắc Sậy, tiền xăng ông chịu. Người cháu nhận lời vì Nhà
thờ Tắc Sậy nằm ngay trên đường Bạc Liêu đi Cà Mau và cách thị xã Cà Mau
khoảng 20 cây số, anh ta chở chú thím tới Tắc Sậy rồi xuống Cà Mau
không có gì khó.
Khi
qua Bạc Liêu, xuống tới thị trấn Hộ Phòng, Nhà thờ Tắc Sậy nằm cách chợ
Hộ Phòng khoảng một cây số, ở phía bên trái. Ông
bà Lâm không thể ngờ được nơi ở của vị cha sứ ân nhân lại nhỏ như vậy.
Đó là ngôi nhà thờ mái lợp tôn, vách ván, xiêu vẹo trông rất tiêu điều.
Đất nhà thờ rộng mênh mông nhưng chung quanh toàn đồng ruộng, dân cư
thưa thớt.
Chiếc
sân đất của nhà thờ không có cổng. Vợ chồng ông Lâm xuống xe, đi vô.
Một ông lão bộc (thường gọi là ông Từ) đang quét trên
sân. Trông thấy khách lạ, ông Từ có vẻ ngạc nhiên vì ít khi có khách
phương xa đến thăm ngôi nhà thờ này. Ông Lâm nói muốn gặp cha sở, ông Từ
mời vào bên trong rồi vào mời cha.
Một
lát sau, vị linh mục ra, ngài cho biết ngài là Linh mục Phêrô Nguyễn
Ngọc Tỏ, cha sở họ đạo Tắc Sậy. Ông bà Lâm rất ngạc nhiên, vị linh mục
này trông không giống vị linh mục đã cho
thuốc một chút nào hết mà sao hai vị đều tự nhận mình là cha sở họ đạo
Tắc Sậy? Ông Lâm bày tỏ sự tình và kể mình đã gặp một vị linh mục cao
lớn, tóc ngắn, gương mặt chữ điền, hàm râu cá chốt. Cha Tỏ mỉm cười,
không lấy gì làm lạ, bèn dẫn vợ chồng ông Lâm qua phía bên hông nhà thờ,
tới ngôi mộ của Cha Diệp. Vừa nhìn thấy tấm hình trên bia mộ, tự nhiên
ông Lâm quỳ phục xuống và quả quyết đây chính là vị ân nhân đã cho
thuốc, cứu bà Lâm khỏi bệnh. Bà Lâm cũng quỳ xuống tạ ơn ngài. Ông bà là
người bên lương, không biết làm dấu Thánh giá.
Lúc
ra về, ông bà Lâm gửi Cha sở một số tiền nho nhỏ để giúp nhà thờ vì lúc
ấy ai cũng nghèo, ông bà không có nhiều. Có lẽ ông bà Lâm là những
người đầu tiên đã giúp nhà thờ từ năm 1977”.
Chuyện bức ảnh đẫm máu
Sau
đây là nguyên văn bức thư của GS Trần Anh Linh gởi cho cụ Võ Hữu Hạnh,
nói về bức ảnh đẫm máu. Xin ghi chú thêm rằng chuyện này xảy ra cách đây
khoảng chừng 2 năm (2008) và hiện nay Linh mục Gioan Minh vẫn còn ở tại
Nhà thờ Hiển Linh đường Ngô Tất Tố (Dương Công Trừng cũ) thuộc giáo
phận Thị
Nghè. Ngài nổi tiếng về việc khấn nguyện Đức Mẹ giùm những người bệnh
tật kết quả rất tốt. Hằng ngày mọi người ở khắp các nơi đến nhờ ngài
khấn rất đông nhưng chính quyền địa phương đã ra lệnh cấm vì không muốn
có sự tụ tập đông đúc.
Sau đây là bức thư của GS Trần Anh Linh:
“Anh Hạnh thân mến,
Tôi
xin gửi tặng anh món quà
quí giá mà Cha Diệp đã ban cho tôi qua Cha Gioan Minh: Cha Diệp đã thực
hiện một phép lạ nhãn tiền là dùng chính tấm ảnh mà chúng ta đã cho họa
sĩ Đại Hàn ở khu Phúc Lộc Thọ vẽ rồi in ra nhiều ấn bản, vừa làm thành
sách, vừa in thành ảnh gởi tặng và bán khắp nơi.
Tấm ảnh đó đã đổ máu đào lênh láng từ vết chém bằng đao kiếm đứt cổ, máu Cha đã đổ ra
thấm ướt làm mờ hàng chữ Trương Bửu Diệp bên dưới.
Câu chuyện xảy ra như sau:
Cha
Gioan Minh (cựu Tuyên Úy), sau 12 năm học tập cải tạo, đã được cho về
và sống ở nhà thờ Chúa Hiển Linh tại Thị Nghè nơi xưa kia Cha Dụ đã
thành lập. Cha Minh ở lại Việt Nam, không xin ra nước ngoài theo diện HO
dù cha có tới 12 năm ở tù.
Một
hôm cha vào Nhà
sách Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở đường Kỳ Đồng và chọn mua một tấm ảnh của
Cha Diệp mà cha đã nghe có nhiều phép lạ. Cô bán hàng dùng giấy báo gói
bức ảnh có đóng khung sẵn trao cho cha Minh. Cha Minh về đến nhà, tính
mở ra để treo lên tường thì một ơn lạ đã xảy ra, là máu tươi từ cổ bức
ảnh tuôn trào ra thấm ướt cả tờ báo gói bức tranh.
Cha
Minh kinh ngạc
bèn cho đó là một dấu chỉ quan trọng, nên đã gói lại cẩn thận và lặng lẽ
đem lên Tòa Tổng Giám Mục Saigon trình với Đức Cha Phạm Minh Mẫn. Theo
cha Minh cho biết thì tấm ảnh thấm máu này đã được gởi qua để Tòa Thánh
xét nghiệm, hy vọng rằng đã đến lúc Tòa Thánh cho lập Ban Điều Tra, tìm
hiểu về các ơn lành Cha Diệp đã làm mà việc lạ lùng làm cho máu đào từ
vết cổ đổ ra sẽ là một trong những chứng cớ để Tòa Thánh có thể tôn
phong Chân Phước cho Cha.
Tôi
là bạn thân của cha Minh, nên cha đã tặng tôi một tấm. Tôi sao lại và
gởi tặng anh, đây là tài liệu mới nhất về Cha Diệp, anh nên ghi chú vào
tập sách Các Ơn Lành của Cha”.
Trần Anh Linh.
Chuyện ông chủ thầu vật liệu xây dựng
Từ
những
năm thuộc thập niên 1980 trở về sau, hằng năm cứ vào các ngày 11-12
tháng 03 dương lịch, dòng người lương, giáo từ các nơi lại đổ về Tắc
Sậy. Trên những chiếc xe đò chở khách, người ta có thể thấy hình một vị
linh mục mặt vuông chữ điền rất dễ mến. Họ xuống để dự lễ giỗ của Cha
Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.
Ông Phước, người trông coi phần
mộ của Cha Diệp tại Nhà thờ Tắc Sậy, kể lại câu chuyện sau đây vào một buổi trưa tháng 04-2010 như sau:
“Vào
khoảng những năm đầu thập niên 1980, bờ kinh cạnh khu nhà thờ này còn
là một bãi đất trống, làm nơi ghe và xe cộ dừng lại đổ hàng. Nửa đêm, có
một ông chủ ghe chở đầy vật liệu xây dựng như gạch, cát, xi-măng... đậu
bên bờ kinh. Ông bỗng trông
thấy một vị khách mặc áo dài đen theo kiểu nhà dòng từ trên bờ bước
xuống. Vị khách tự xưng mình là cha xứ Nhà thờ Tắc Sậy, muốn mua hết các
vật liệu trên ghe để xây lại nhà thờ. Giá cả xong xuôi, chủ ghe đồng ý
bán và hẹn hôm sau sẽ cho công nhân đem hàng lên xong ông sẽ nhận tiền.
Sáng
hôm sau, trước khi giao hàng, chủ ghe lên nhà thờ, định gặp cha xứ
để biết chỗ cho công nhân xếp hàng. Đến khi gặp linh mục Phêrô Nguyễn
Ngọc Tỏ, ông rất ngạc nhiên, từ giọng nói cho tới gương mặt, thân hình,
vị linh mục này trông không giống với vị khách có ria mép hôm trước một
chút nào cả. Cha Tỏ nói: “Tôi hiểu, đó chính là linh hồn cha sở Phanxicô
Trương Bửu Diệp đấy. Ý ngài muốn xây lại nhà thờ nên hiện ra như vậy”.
Cha kể cho ông chủ thầu nghe các chuyện linh ứng của Cha Bửu Diệp rồi
nói: “Ý tôi cũng muốn xây lại ngôi nhà thờ cho đàng hoàng nhưng họ đạo
nghèo, chưa đủ tiền. Thôi thì đành cáo lỗi với ông và hẹn khi khác”. Ông
chủ thầu nói: “Cha Diệp đã linh ứng như vậy thì con không dám lấy tiền.
Mặc dầu con là người bên lương nhưng con xin hiến tất cả các vật liệu
trên ghe để nhà
thờ xây sửa lại, không nhận một đồng nào cả”. Ông chủ thầu lập tức cho
người khuân gạch, cát, xi-măng từ dưới ghe lên rồi đi, ngay cả tiền công
bốc xếp của các công nhân ông cũng tự trả, không để nhà thờ phải trả.
Không ngờ từ đấy ông chủ ghe buôn bán ngày càng phát đạt. Ông cho rằng mình được Cha Diệp phò hộ nên mỗi lần đi qua Hộ Phòng ông
thường quay lại Nhà thờ Tắc Sậy để tạ ơn Cha.
Cũng
theo ông Phước, những chuyện linh ứng của Cha Diệp ngày một lan rộng.
Từ đó về sau, khách thập phương kéo về nườm nượp để cầu xin Cha ban ơn
lành. Nhất là các nghệ sĩ cải lương nổi tiếng, rất nhiều người xuống, họ
cầu xin Cha chuyện này chuyện khác, và ai cũng được toại nguyện. Lời
nguyện đắc thành,
họ đến đền ơn Cha, người thì ghế đá, người thì vật dụng dùng cho nhà
thờ, người thì tiền bạc..., nhiều không sao kể xiết. Cứ thế, vào những
này cuối tuần hoặc trong dịp lễ giỗ Cha (12 tháng 03 dương lịch), khách
thập phương kể cả trong nước lẫn ngoài nước về kính viếng Cha đông như
trẩy hội. Có nhiều người đem theo cả những chai nước La Vie đến để bên
cạnh mộ, cầu nguyện trước khi mang về cho người trong gia đình. Nhưng
cũng có những người tin tưởng đến độ cầu nguyện trong nhà thờ, trước mộ
của Cha chưa đủ, họ còn hỏi thăm, tìm đến chiếc ao nhỏ của gia đình ông
giáo Sự ngày xưa để chiêm ngưỡng nơi Cha đã bị sát hại.
Điều
lạ lùng hơn nữa là theo như lời của vị cha xứ hiện nay là Linh mục
Phaolô Nguyễn Thanh Bình, thì có tới 70% khách thập phương xuống Giá Rai
kính ngưỡng Cha Diệp là người ngoại đạo hoặc Việt Kiều từ nước ngoài
về. Có những người chưa về nhưng đã “nghe nói” tới sự linh ứng của Cha
nên đã gửi tiền về giúp nhà thờ xây dựng được một cơ ngơi lớn lao như
ngày nay, khả dĩ có thể đón tiếp bất cứ các nhóm hành hương nào dù đông
bao
nhiêu, họ đều có chỗ nghỉ ngơi đàng hoàng mà không cần phải đóng góp gì
cả.
Để
kết luận bài này, tôi xin thưa với quý vị độc giả thân mến rằng tôi
không phải là người Công giáo, nhưng tôi biết trong Thánh kinh Công giáo
có câu nói của Đức chúa Giêsu: “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Vậy nay
tôi xin dùng câu nói này để cầu Chúa và Cha Diệp ban ơn cho quý vị.
Amen.
Đoàn Dự ghi chép
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét