Lời Giới Thiệu:
Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyền là giáo sư về khoa Giải phẫu Tiểu Nhi tại đại học McGill, Montreal, Canada. Tuy là môt chuyên gia bận rộn, nhưng ông là một trong số những ít bác sĩ quan tâm và viết đến những vấn đề đất nước.
Võ Nguyên Giáp là một thiên tài khốn nạn của quê hương.
Tôi chia sẻ ý kiến này , nhưng chỉ chia sẻ một nửa thôi.
Vâng, Võ Nguyên Giáp thực quả là một tên khốn kiếp, đã đẩy hàng triệu thanh niên đất Việt vào chỗ chết từ năm 1946 tới năm 1975, để thực hiện cho được việc áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản sắt máu trên toàn quê hương. Nhưng Y có là một thiên tài hay không, dù là một thiên tài khốn nạn của quê hương, thì cần phải xét lại. Sau mấy chục năm, các tài liệu về chiến tranh tại Việt Nam, các dữ kiện lịch sử đã được giải mật. "Huyền thoại Võ Nguyên Giáp" đã hết còn là một huyền thoại.
Võ Nguyên Giáp sanh ngày 25 tháng 8 năm 1911 tại làng An xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha Y là Võ Quang Nghiêm, một hương sư dạy chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ và hành nghề Đông Y như phần lớn các nhà nho lỡ vận. Khi cuộc chiến Việt-Pháp bùng nổ, Ông Nghiêm bị Pháp bắt đưa về giam ở Huế rồi chết trong tù. Mẹ Giáp là Bà Nguyễn Thị Kiên.
Võ Nguyên Giáp là con thứ 6 trong số 8 người con của Ông Bà Võ Quang Nghiêm. Năm 14 tuổi (1925), Giáp vào Huế học trường Quốc Học. Hai năm sau, bị đuổi học, Giáp về quê tham gia Tân Việt Cách mệnh Đảng – một đảng có mầu sắc Cộng Sản được thành lập năm 1924 ở miền Trung.
Đầu tháng 10 năm 1930, Giáp bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phú ( Huế ).. Năm 1931, Giáp được thả ra khỏi nhà tù, ra Hà Nội học tại trường Albert Sarraut cho tới khi đỗ Tú tài.
Năm 1937, Giáp tốt nghiệp trường Luật tại Hà Nội.
Năm 1934, Giáp kết hôn cùng Nguyễn Thị Quang Thái, một đồng chí của ông. Bà Thái có với Giáp một người con gái, Võ Thị Hồng Anh. Năm 1943, Bà Thái bị Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội. Bà chết trong tù.
Tháng 5 năm 1939, Giáp bắt đầu dạy môn Sử tại trường tư thục Thăng Long tại Hà Nội. Theo lời thuật của một số người, Giáp là một giáo sư Sử giỏi và hùng biện.
Từ năm 1936 đến năm 1939, Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân Chủ Đông Dương. Võ Nguyên Giáp vào Đông Dương Cộng Sản đảng vào năm 1940, bắt đầu các hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh. Giáp tham gia gây dựng cơ sở và huấn luyện quân sự ở Cao Bằng dù Giáp chưa từng được huấn luyện về quân sự.. Trong đảng Cộng Sản Đông Dương, có lẽ chỉ có Phùng Chí Kiên được theo học một thời gian tại trường Võ bị Hoàng Phố ở Trung Hoa.
Ngày 22 tháng 12 năm
1944, theo sự phân bố của Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân với 34 người. Theo tài liệu của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, đó là khởi thủy của đạo quân Cộng Sản Việt Minh sau này.
Tháng 8 năm 1945, Giáp được bầu vào Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương.
Tháng 1 năm 1948, Giáp được Hồ Chí Minh phong quân hàm Đại Tướng. Cùng được phong Tướng có một số tên như Văn Tiến Dũng, Vương Thừa Vũ, Nguyễn Chí Thanh, Đinh Đức Thiện, Lê Trọng Tấn, Trần Đăng Ninh…
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ kéo dài cho tới năm 1954 và chấm dứt ở trận Điện Biên Phủ.
Từ năm 1945 cho đến năm 1991(năm Giáp nghỉ hưu, hết còn là ủy Viên Trung Ương Đảng) Giáp đã giữ những chức vụ như sau:- Ủy Viên Bộ Chánh trị
- Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng- Tổng Tư lệnh Quân Đội- Phó Thủ Tướng- Chủ Nhiệm Ủy Ban Khoa học nhà nước.- Năm 1983, Chủ tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch.
Chức vụ Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội là những chức vụ Giáp ở lâu nhất, từ năm 1945 đến năm 1980.Chức
vụ coi về sanh đẻ năm 1983 là môt hình thức hạ nhục Giáp do đám Lê
Duẩn, Lê Đức Thọ chủ trương. Để nói về việc hạ nhục này, trong
dân gian có truyền tụng hai câu thơ diễu cợt đượm đầy mỉa mai:
Ngày xưa Đại tướng cầm quân
Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em
Sau trận Điện Biên Phủ năm
1954, sự hiện diện của người Pháp cáo chung, Võ Nguyên Giáp nổi tiếng
như cồn. Sau cái gọi là Đại thắng mùa xuân năm 1975 – một may mắn bất
ngờ cho đảng Cộng Sản Việt Nam ( một bất hạnh cho dân tộc Việt ) chiếm
được miền Nam – trước mắt người ngoại quốc mù tịt về cơ cấu tổ chức của
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Võ Nguyên Giáp trở thành một huyền thoại.
Một số sách viết về Giáp như:- General Giáp: Politician and Strategist của Robert j. O'Neil (Australia)- Giáp: the Victor in Vietnam của Thiếu tướng hồi hưu Peter McDonald In năm 1993 ( British )
- Các bài viết rải rác của Douglas Pike thuộc University of California,
Berkeley (USA)
Xin mở một dấu ngoặc ở đây
về các sách viết về các lãnh tụ Công Sản Việt Nam cũng như các lãnh tụ
của các nước Cộng Sản khác trên thế giới. Tác giả phải được sự chấp nhận
của Bộ Chính trị và chỉ được viết những gì mà cơ quan quyền lực tối cao
của Cộng Sản đưa ra mà thôi.
Giáp được các tác giả ca
tụng như một thiên tài quân sự, một chiến lược gia tài tình của thế giới
( genius strategist, geniusgeneral of the world ). Từ mấy năm gần đây,
các tài liệu mật về 2 cuộc chiến tại Việt Nam (1946-1954 và 1954-1975 )
được giải mật khiến ta thấy rằng "thiên tài Võ Nguyên Giáp" đã được các
đồng chí nặn ra như các đồng chí đã nặn ra anh hùng Lê Văn Tám, chú Kim
Đồng…..trong suốt chiều dài của cuộc chiến xâm nhập của chủ nghĩa Cộng
Sản man rợ lên quê hương mà đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là một lũ thừa
sai.
Bản chất của những người
lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, kể từ Hồ Chí Minh trở xuống, là gian
hùng, dối trá, thâm độc và tàn bạo. Giáp có đầy đủ các "đức tính" đó.
Năm 1946, Hồ Chí Minh
ký hòa ước với Pháp để quân Pháp trở lại Việt Nam. Các lãnh tụ Công
Sản, trong đó có Giáp, đã thẳng tay tiêu diệt các người quốc gia (Losers
are Pirates by James Banerian1984, p.69
)
Năm 1946, khi cuộc chiến tranh Việt – Pháp sắp xẩy ra, Giáp là Bộ Trưởng Quốc phòng trong Chánh phủ liên hiệp. Tại Hà Nội, trong khi quân Pháp và Tự Vệ Thành đang gầm ghè nhau, Giáp và đồng bọn hứa hẹn là quân chánh qui của họ tức các đơn vị Vệ Quốc Đoàn tinh nhuệ đã kéo về đóng chung quanh Hà Nội, sẵn sàng làm cỏ quân Pháp.
Năm 1946, khi cuộc chiến tranh Việt – Pháp sắp xẩy ra, Giáp là Bộ Trưởng Quốc phòng trong Chánh phủ liên hiệp. Tại Hà Nội, trong khi quân Pháp và Tự Vệ Thành đang gầm ghè nhau, Giáp và đồng bọn hứa hẹn là quân chánh qui của họ tức các đơn vị Vệ Quốc Đoàn tinh nhuệ đã kéo về đóng chung quanh Hà Nội, sẵn sàng làm cỏ quân Pháp.
Ngày 19 tháng 12, chiến
tranh bùng nổ tại Hà Nội. Nhóm lãnh đạo Cộng Sản đã rút về Hà Đông từ
mấy ngày trước. Vệ Quốc Đoàn đâu chẳng thấy, chỉ thấy các Tự Vệ Thành
đánh vùi với quân Pháp trong các đường phố Hà Nội. Họ đã cầm cự với quân
Pháp trong gần 2 tháng, thời gian đủ để dân chúng rời thành phố lánh
nạn, đủ để đám Cộng Sản rút vào các an toàn khu Việt Bắc. Giáp và đồng
bọn muốn mượn tay quân Pháp để thủ tiêu các thanh niên Hà Nội. Quả thực,
Tự Vệ Thành là những thanh niên tiểu tư sản, phần lớn xuất thân từ các
gia đình khá giả. Đám tiểu tư sản này là những thành phần không có chỗ
đứng trong chế độ Cộng Sản. Càng lợi cho việc thiết lập chủ nghĩa Cộng
Sản tại Việt Nam
nếu họ bị Pháp tiêu diệt, bớt đi càng nhiều càng tốt cho chủ nghĩa Mac
Xít Léninist dễ phát triển ở Việt Nam.
Giáp đã viết sách về chiến
tranh nhân dân, quân đội nhân dân (được dịch ra tiếng Pháp; Guerre du
peuple, l'Armée du peuple ), tự cho rằng mình và đảng Cộng Sản Việt Nam
là nguồn gốc của quan niệm chiến lược, chiến thuật này.
Sự thực, quan niệm về chiến
tranh nhân dân đã được Tướng Trần Canh, một trong ngũ hổ tướng của Mao
Trạch Đông, du nhập vào Việt Nam kể từ trận chiến biên giới Cao Bằng
Lạng Sơn năm 1950.
Giáp thực sự không phải là
cha đẻ của quân đội Cộng Sản Việt Nam, tuy rằng cuối năm 1944, theo lệnh
Hồ Chí Minh, Giáp thành lập đoàn Võ Trang tuyên truyền gồm 34 thành
viên với trang bị rất thô sơ. Quân đội Trung Cộng mới thực sự là cha đẻ
của quân đội nhân dân của Cộng Sản Việt Nam.
Tháng 3 năm 1946, 1 Trung
Đoàn quân Cộng Sản Trung Hoa tràn qua biên giới, vào Việt Nam để tránh
bị các Lộ Quân 46, 64 của Tưởng Giới Thạch tiêu diệt. Chính Trung đoàn
quân Cộng Sản Trung Hoa này đã giúp Cộng Sản Việt Nam huấn luyện Quân
đội. Tình báo của Mỹ đã đánh hơi thấy việc Trung Cộng huấn luyện quân
đội Cộng sản Việt Nam từ những năm này.
Từ năm 1950, Trung Cộng
không ngừng cung cấp người, võ khí và tiếp liệu cho Công Sản Việt Nam.
Chính Võ Nguyên Giáp, trong cuốn Đường tới Điện Biên Phủ đã viết: Trong
một buổi làm việc ở Moscou với Staline, Mao Trạch Đông, Mao đã hứa trang
bị cho Việt Nam 10 sư đoàn. Mao nói: Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn
(sư đoàn) để đánh Pháp. Trước mặt hãy trang bị 6 đại đoàn có mặt ở miền
Bắc Việt Nam. Có thể đưa ngay một số đơn vị sang Trung Hoa nhận vũ khí.
Tỉnh Quảng Tây sẽ lả hậu phương trực tiếp của Việt
Nam. Sau đó các đơn vị của quân đội nhân dân lần lượt được đưa sang Tầu
để thụ huấn và nhận vũ khí.
Theo Giáp: những đơn vị sang Trung Quốc, ngoài việc trang
bị lại vũ khí còn được huấn luyện thêm về chiến thuật công kiên, đặc
biệt là kỹ thuật đánh bộc phá. Trước đây, vì chưa có thuốc nổ, ta chưa
hề xử dũng kỹ thuật này.
Cũng theo Giáp, chính Hồ
Chí Minh đã yêu cầu Tầu Cộng gửi qua Việt Nam một đoàn cố vấn. Theo lời
yêu cầu đó, một đoàn cố vấn Trung Cộng khoảng 80 người đã sang Việt Nam,
giúp quân Cộng Sản Việt Nam: Lã Quí Ba, Ủy Viên Trung ương đảng Cộng
Sản Trung Quốc, Trưởng đoàn Cố vấn; Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn Cố vấn về
Quân sự: Mai Gia Sinh, cố vấn về công tác tham mưu; Mã Tây Phu, Cố vấn
về công tác hậu cần. Chính các Cố vấn Trung Cộng đã giúp Công Sản Việt
Nam tổ chức 3 (ba) cơ chế chánh trong quân đội: Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng
Cục chánh trị và Tổng cục hậu cần. Tóm lại ngay trong công việc tổ chức
quân đội của Cộng Sản Việt Namm, Giáp chỉ là người thừa hành.
Giáp là một tên hèn.Năm
1983, Giáp bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn hạ nhục bằng cách cho đi làm Chủ
tịch Ủy Ban sanh đẻ có kế hoạch. Giáp đã ngậm bồ hòn làm ngọt, ngoan
ngoãn vâng lời. Trong vụ Nhân văn Giai phẩm xẩy ra tại miền Bắc năm
1955, nhiều người đã ở trong Quân Đội Nhân dân của Giáp như Trần Dần,
Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng Quán…bị đem ra đấu tố, tù đầy. Giáp vẫn giữ
im lặng. Trong vụ án chống đảng do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ mưu, các
tướng Cộng sản đàn em của Giáp như Lê Liêm, Đặng Kim Giang, Nguyễn Văn
Vịnh, các Đại tá thuộc cấp của Giáp như Lê Minh Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Văn
Dzoãn… bị hãm hại; Giáp vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.. Khi các tướng Lê Trọng
Tấn,
Hoàng
Văn Thái (cũng là thông gia của Giáp) bị đột tử sau khi miền Nam đã bị
cộng sản hóa. Giáp vẫn ngậm miệng, im lặng là vàng. Giáp đã để lộ rõ cái
hèn, thủ khẩu như bình.
Giáp kệ mặc đàn em bị thảm
sát, tù đày. Theo Bùi Tín, cựu Phó Tổng Biên tập của báo Cộng Sản Quân
Đội Nhân dân, sở dĩ Giáp không bị đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn thủ tiêu vì
Giáp biết thủ nghĩa là Giáp biết cách tránh né để bảo toàn mạng sống.
Khi được một ký giả ngoại
quốc hỏi Giáp có hối tiếc gì về số 3-4 triệu người Việt Nam chết vì các
cuộc chiến tranh, gọi là chiến tranh ý thức hệ, Giáp đã trả lời là y
không hối tiêc gì cả (Non, pas du tout).
Mạng sống của thanh niên
Việt Nam bị họ Võ coi như cỏ rác. Giáp sẵn sàng thí quân trong các trận
chiến. Trong trận chiến tranh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1950, để
tiêu diệt cứ điểm Đồng Khê do 262 lính Pháp trấn đóng, Giáp đã dùng tới
10.000 quân (đông hơn quân trú phòng 40 lần). Sau trận đánh, hơn 500
quân Việt tử trận, không kể số bị thương hàng ngàn. Trong trận đồng bằng
Phủ Lý, Ninh Bình, Vĩnh Yên vào tháng giêng năm 1951, chiến thuật biển
người của Giáp đã bị Tướng Pháp De Lattre de Tassigny dùng bom Napalm
tiêu diệt. Quân Cộng sản, dưới sự chỉ huy của Giáp, đã bị nhiều tử vong,
thất bại trong ý đồ đưa chiến tranh về đồng bằng. Số tử vong của
quânđội cộng sản, khi tháo lui, là trên 6000 người.
Số bị thương chắc chắn là gấp đôi, gấp ba con số 6000.
Trong chiến tranh Việt –
Pháp 1946-1954, người thực sự chỉ huy các trận đánh lớn không phải là
Giáp mà là các tướng Trung Hoa Cộng Sản như Trần Canh trong những năm
50, sau đó là đoàn cố vấn Trung Quốc đứng đầu là Vy Quốc Thanh, Lã Quí
Ba. Hào quang chiến thắng của Giáp chỉ là một giả tạo, một hào quang do
Trung Cộng ban cho.
Chiến dịch biên giới năm 1950.Chiến
dịch này nhằm mục đích đuổi quân Pháp ra khỏi biên giới của 2 nước Việt
Nam-Trung Hoa để cho việc tiếp vận từ Trung Hoa Cộng Sản cho quân đội
của Cộng Sản Việt Nam được dễ dàng. Tướng Trần Canh của Trung quốc sang
Việt Nam ngày 22-7-1950. Trần Canh đã áp dụng học thuyết chiến tranh
nhân dân của Mao vào chiến tranh Việt Nam.
Kế hoạch tiến công của Võ
Nguyên Giáp trong chiến dịch biên giới được thay thế bằng kế hoạch tác
chiến của Trần Canh. Thay vì tấn công Cao Bằng như kế hoạch của Giáp,
Trần Canh đề nghị kế hoạch tấn công Đông Khê, một đồn của Pháp nằm giữa
Cao Bằng và Lạng Sơn, để lùa quân Pháp ra khỏi hai tỉnh trên và sau đó
phục kích tiêu diệt (công đồn đả viện). Hồ Chí Minh chấp thuận kế hoạch
này. Kết quả trận đánh là quân Pháp thảm bại phải bỏ hết các tỉnh biên
giới. Chiến thuật công đồn đả viện của Cộng Sản Việt Nam là do các cố
vấn Trung Quốc, nhứt là Trần Canh, truyền thụ cho.
Từ năm 1951, nhóm cố vấn
chánh trị do Lã Quí Ba cầm đầu đã giúp Hồ tạo lập luật lệ và chánh sách
liên quan đến tài chánh, thuế khóa, quản lý báo chí và đài phátthanh
cũng như các chánh sách đối với các dân tộc thiểu số…..
Chiến dịch Tây Bắc 1952Sau
các tổn thất ở đồng bằng sông Hồng Hà năm 1951, Việt Minh, theo sự cố
vấn của các cố vấn Trung Quốc, mở chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Lã Quí Ba
trách nhiệm hoạch định chiến dịch thay Vi Quốc Thanh về Tầu chữa bệnh.
Hồ Chí Minh chấp thuận hoàn toàn đề nghị của Lã Quí Ba. Theo Qiang Zhai
(China and the Vietnam wars 1950-1975) cuối tháng 9 năm 1952, Hồ bí mật
sang BắcKinh để thảo luận về chiến dịch Tây Bắc cũng như chiến lược
thắng quân Pháp.
Ngày 14-10 Việt Minh tập trung 8 tiểu đoàn tấn công Nghĩa Lộ và các đồn bót lân cận.Ngày
16-10 Vy Quốc Thanh trở lại Việt Nam để cùng Lã Quí Ba chỉ đạo chiến
dịch. Sau khi mất Nghĩa Lộ,
quân Pháp chạy khỏi Sơn La ngày 21-11. Việt Minh hoàn toàn chiếm lĩnh
một khu vực lớn ở Tây Bắc, cho phép họ có thể tiến hành các hoạt động ở
Lào.
Đối phó với kế hoạch Navarre – Trận Điện Biên PhủTháng 5-1953, tướng Henri Navarre đảm trách chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương với kế hoạch:
1- Kiểm soát vùng đồng bằng sông Hồng2- Bình định các khu do Cộng Sản kiểm soát ở miền Trung và miền Nam3- Mở tổng phản kích tiêu diệt các cứ địa của Việt Minh tại miền Bắc
Navarre cho thành lập các binh đoàn lưu động.Việt
Minh Cộng Sản, lúc đầu muốn tập trung quân tại vùng Tây Bắc và Lai
Châu, nhưng sau Giáp từ bỏ ý định đó, muốn kéo quân tấn công quân Pháp ở
đồng bằng sông Hồng Hà. Như vậy Giáp hạ thấp tầm quan trọng của chiến
dịch ở Lào. Bắc Kinh không đồng ý với kế hoạch của Giáp. Bắc Kinh nhấn
mạnh Việt Minh cần giữ nguyên kế hoạch tập trung vào Tây Bắc và Lào.
Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng nếu thực thi chiến thuật này, Việt Minh
Cộng Sản có thể chuẩn bị lực lượng cho công cuộc đánh chiếm đồng bằng
sông Hồng và cuối cùng sẽ đánh bại Pháp ở Đông Dương.
Tháng 9, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam, phủ quyết kế hoạch của Giáp để theo kế hoạch của các cố vấn Tầu.
Ngày 27 tháng 10 năm 1953,
Vy Quốc Thanh trao cho ông Hồ một bản sao kế hoạch của Navarre mà tình
báo Trung Cộng đã thu đoạt được. Sau khi xem xét, các lãnh đạo của Cộng
sản Việt Nam nói đề nghị của Trung Quốc là đúng. Cộng Sản Việt Nam, nếu
theo đúng kế hoạch của Trung Quốc, có thể phá vỡ kế hoạch của Navarre.
Khi Navarre đưa quân
đến Điện Biên Phủ, Giáp và Bộ Tham mưu chưa nhận ra tầm quan trọng của
vị trí này. Chính Vy Quốc Thanh là người đã thúc Giáp mở chiến dịch bao
vây và tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Trung Quốc nhấn mạnh chiến
dịch Điện Biên Phủ không chỉ quan trọng về quân sự mà còn có ảnh hưởng
quốc tế.
Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị của Cộng Sản Việt Nam thông qua kế hoạch tác chiến ở Điện Biên Phủ. Giáp chỉ là người thi hành kế hoạch do cố vấn Trung Quốc Vy Quốc Thanh đề ra. Người hùng Điện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp đã được cố vấn Tầu nặn ra.
Chính các cố vấn Trung Cộng
đã giúp Việt Minh trong các chiến dịch biên giới, Tây Bắc và Điện Biên
Phủ. Trung Cộng đã chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ 8286 tấn tiếp
liệu gồm võ khí, lương thực v.v… Cố vấn TC có mặt ở mọi đơn vị. Thí dụ
họ đã giúp Việt Minh bố trí pháo binh trong các hào sâu trên sườn núi để
tránh bị phi cơ Pháp phát hiện và phá hủy. Pháo binh của Việt Minh,
được các cố vấn Trung Cộng điều khiển, là một bất ngờ cho quân đội Pháp.
Nhưng sự tham dự tích cực của Trung Cộng vào sự thành công của chiến
dịch không hề được Giáp nhắc tới trong các bài viết, trong các sách của y
như cuốn Điện Biên Phủ: điểm hẹn lịch sử. (The Chinese support for the
North Vietnam during the Vietnam
War;
The Decisive Edge by Bob Seals).
Sự giúp đỡ của Trung
Cộng không ngừng ở chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đánh dấu sự cáo
chung của chủ nghĩa thực dân. Sự giúp đỡ vẫn được tiếp tục trong cuộc
chiến xâm lăng miền Nam 1954-197
Sám hối ?
Thay lời kết:
Người hùng Võ Nguyên Giáp, tướng huyền thoại của Cộng Sản Việt Nam chỉ là một nhân vật đại bịp trong số hàng trăm hàng ngàn tên bịp bợm (trong đó có cả tên Hồ), trong quá trình hiện hữu của đảng Cộng Sản Việt Nam. Y không phải là một thiên tài quân sự như đảng Cộng Sản Việt Nam thổi phồng.
Chính các cố vấn Trung Cộng
do Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba cầm đầu đã đánh thắng quân Pháp trong cuộc
chiến 1946-1954 chứ không phải là Giáp. Hào quang của Giáp là do Trung
Cộng nặn ra, treo vào cổ Giáp. Sự thực các trận đánh lớn, có tính cách
quyết định đều do các cố vấn Tầu Cộng thiết kê và điều khiển.
Giáp đã sống trong cái vỏ thiên tài đó trong hơn nửa thế kỷ. Đến nay thì sự thực đã được phơi bầy:
Trong suốt hai cuộc chiến
1946-1954, 1954-1975, Giáp và đảng Cộng Sản Việt Nam đã dựa vào Trung
Cộng gần như toàn diện. Nay họ đã và đang trả món nợ đó, trả bằng cả số
phận của dân Việt, bằng cả đất nước do tổ tiên để lại: quê hương đang
mất dần vào tay người Trung hoa Cộng sản.
Bs. Nguyễn Lương Tuyền
Bs. Nguyễn Lương Tuyền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét