Phạm Bá Hoa
Tôi
tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù
không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi
là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi vẫn hãnh diện về
màu cờ sắc áo mà tôi đã phục vụ. Cho đến nay, tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt
Nam khi mà quê hương tôi chưa có dân chủ, tự do, và nhân quyền thật
sự.
Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để
tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến
các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng
Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong
quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân
Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là
trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là
một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản
đó.
Thứ
nhất: Luật
Biển 1982 của Liên Hiệp Quốc.
(Tóm tắt từ Người Sưu Tầm, 17/7/2012)
Năm 1967, các tuyên bố khác nhau về lãnh hải đã được nêu ra tại
Liên Hiệp Quốc. Năm 1973, Hội Nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 về Luật Biển tổ chức
tại New York, với hơn 160 quốc gia tham dự. Hội nghị kéo dài đến năm 1982, đạt
đến kết quả với sự đồng thuận của Hội Nghị và một Công Ước hình thành, có hiệu
lực từ ngày 16/11/1994. Đến lúc ấy mới có 60 quốc gia ký vào Công Ước.
Công Ước qui định các vùng:
“Đường cơ sở” (baseline) dọc theo bờ biển, được định
nghĩa như sau: “Thông thường, một
đường biển cơ sở dọc theo bờ biển khi thủy triều xuống, nhưng khi đường bờ biển
bị thụt sâu, có đảo ven bờ, hoặc đường bờ biển rất không ổn định, có thể sử dụng
các đường thẳng làm đường cơ sở”.
Vùng
nội thủy, bao
phủ tất cả vùng biển và đường thủy ở bên trong đường cơ sở. Tại đây, quốc gia
ven biển được tự do qui định về kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài
nguyên. Các tàu thuyền ngoại quốc không có quyền đi lại tự do trong các vùng nội
thủy.
Vùng
lãnh hải, nằm
ngoài đường cơ sở có chiều rộng 12 hải lý. Tại đây, quốc gia ven biển được quyền
tự do qui định về kiểm soát việc sử
dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền ngoại quốc được quyền "qua lại nhưng không gây hại"
thì không cần xin phép nước chủ nhà. Đánh cá, làm ô nhiễm, dùng vũ khí, và do
thám, không được xếp vào dạng "không gây hại". Nước chủ nhà có thể tạm thời cấm
việc "qua lại nhưng không gây hại" này tại một số vùng trong lãnh hải của mình
khi cần bảo vệ an ninh.
Vùng
nước quần đảo.
Công Ước đưa ra định nghĩa về các quốc gia quần đảo trong phần IV, cũng như định
nghĩa về việc các quốc gia này có thể vẽ đường biên giới lãnh thổ của mình như
thế nào. Đường cơ sở được vẽ giữa các điểm ngoài cùng nhất của các đảo ở ngoài
cùng nhất, bảo đảm rằng các điểm này phải đủ gần nhau một cách thích đáng. Mọi
vùng nước bên trong đường cơ sở này sẽ là vùng nước quần đảo và được coi là một
phần của lãnh hải quốc gia đó.
Vùng
tiếp giáp lãnh hải.
Bên ngoài giới hạn 12 hải lý của lãnh hải là một vành đai có bề rộng 12 hải lý,
đó là vùng tiếp giáp lãnh hải. Tại đây, nước chủ nhà có thể thực thi luật pháp
của mình đối với các hoạt động như buôn lậu hoặc nhập cư bất hợp
pháp.
Vùng
đặc quyền kinh tế.
Rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng này, quốc gia ven biển được
hưởng độc quyền trong việc khai thác tất cả tài nguyên thiên nhiên. Khái niệm
vùng đặc quyền kinh tế được đưa ra để ngừng các cuộc xung đột về quyền đánh cá,
tuy rằng khai thác dầu mỏ cũng đã trở nên một vấn đề quan trọng. Trong vùng đặc
quyền kinh tế, nước ngoài có quyền tự do đi lại bằng đường thủy và đường hàng
không, tuân theo sự kiểm soát của quốc gia ven biển. Ngoại quốc cũng có thể đặt
các đường ống ngầm và cáp ngầm.
Thềm
lục địa.
Là vành đai mở rộng của lãnh thổ đất cho tới mép lục địa (continental margin), hoặc 200 hải lý
tính từ đường cơ sở, chọn lấy giá trị lớn hơn. Thềm lục địa của một quốc gia có
thể kéo ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa, nhưng không được
vượt quá 350 hải lý, không được vượt ra ngoài đường đẳng sâu 2500m một khoảng
cách quá 100 hải lý. Tại đây, nước chủ nhà có độc quyền khai thác khoáng sản và
các nguyên liệu không phải sinh vật sống.
Bên cạnh các điều khoản định nghĩa các ranh giới trên biển, Công
Ước còn thiết lập các nghĩa vụ tổng quát cho việc bảo vệ môi trường biển, và bảo
vệ quyền tự do nghiên cứu khoa học trên biển. Công Ước cũng tạo ra một cơ chế
pháp lý mới cho việc kiểm soát khai thác tài nguyên khoáng sản tại các lòng biển
sâu nằm ngoài thẩm quyền quốc gia, được thực hiện qua Ủy Ban Đáy Biển Quốc Tế
(International Seabed
Authority).
Các nước không có biển được quyền có đường ra biển mà không bị
đánh thuế giao thông bởi các nước trên tuyến đường nối với biển
đó”.
Ký và phê chuẩn. Các quốc gia bắt đầu ký từ ngày 10 tháng 12
năm 1982. Bắt đầu hiệu lực ngày
16 tháng 11 năm 1994.
Thứ
hai:
Đường Lưỡi Bò 2009 của Trung Cộng.
Ngày 7/5/2009, Trung Cộng phản đối bản đệ trình của riêng Việt Nam
và bản đệ trình chung của Việt Nam với Malaysia gởi đến Ủy Ban Biên Giới Thềm
Lục Địa (CLCS) Liên Hiệp Quốc. Kèm theo Công Hàm phản đối là một bản đồ, có vẽ một đường hình chữ U
với nhiều chấm bao trùm phần lớn Biển Đông. Thật ra, trong hội nghị của Hội Quốc
Liên năm 1951 tại San Francisco (Hoa Kỳ) có 51 phái đoàn tham dự, lúc ấy phái
đoàn Trung Cộng trưng dẫn bản đồ do Trung Hoa Quốc Gia thời Tổng Thống Tưởng
Giới Thạch vẽ ra, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong đường chữ
U có hình dáng cái “lưỡi bò” chiếm khoảng 80% Biển Đông là thuộc chủ quyền của
Trung Cộng. Sự trưng dẫn này bị 46 phái đoàn phản đối. Cũng trong hội nghị này,
phái đoàn Quốc Gia Việt Nam do Thủ Tướng Trần Văn Hữu hướng dẫn, đã trình bày
với những tài liệu chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam từ
trong lịch sử, thì không một phái đoàn nào phản đối, đã chứng tỏ tài liệu lịch
sử chứng minh được quốc tế công nhận chủ quyền của Việt Nam là đúng.
Các Anh có nhận ra sự thành công của phái đoàn quốc gia Việt Nam
thành công trong sự kiện chứng minh Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam từ trong
lịch sử, trong khi Trung Cộng trình bày thị bị phản bác không? Và Các Anh có
biết Biển Đông rộng đến mức nào không? Tôi vào trang Web <World’s Largest
Oceans> thấy vài con số như sau: “Biển Đông (đối với Việt Nam) với diện tích
rộng 2.974.100 cây số vuông, lớn hạng thứ 5 trong số 10 đại dương lớn nhất thế
giới. Vậy, 80% của Biển Đông nằm trong “đường lưỡi bò” mà Trung Cộng tự cho là
của họ đã chiếm đến 2.379.928 cây số vuông, trong đó có hơn phân nửa thuộc
chủ quyền của Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa. Trong khi lãnh đạo Trung
Cộng bất chấp luập pháp quốc tế mà đạp đầu đạp cổ Việt Nam, thì nhóm lãnh đạo
của Các Anh vẫn nâng niu cái gọi là “16 chữ vàng và 4 tốt” trong bang giao với
Trung Cộng.
Các
Anh nghĩ gì về nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị? Nếu Các Anh muốn tìm hiểu thêm, hãy đọc
tiếp đoạn phỏng vấn ngắn dưới đây để thấy mưu đồ của Trung Cộng chiếm lấy Biển
Đông như thế nào. Ngày 16/8/2012, phóng viên của TTXVN phỏng vấn
ông Phạm Nguyên Long, một
thời là nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam.
Phóng
viên:
“Những ngày vừa qua, sau khi Việt Nam công bố về những tấm bản đồ
cổ
của Trung Quốc không có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, và dù đang có xu
hướng bị Mỹ phong tỏa, nhưng Trung Quốc vẫn cho in bản đồ giả, rồi
tuồn vào Việt Nam. Điều đó nói lên rằng, Trung Quốc vẫn nhất quyết độc chiếm Biển Đông dù uy tín quốc gia đang
bị hạ thấp. Vậy,
Việt Nam nên xử lý như thế nào?”
Ông Phạm Nguyên Long: “Chúng ta tuyên bố, không những phải tuyên truyền cho nhân dân Việt Nam biết những bản đồ
về sự thật lãnh thổ Trung Quốc trong lịch sử, mà còn phải cho nhân dân Trung Quốc biết điều đó. Để đáp lại hành động
này của Việt Nam, Trung Quốc cũng đưa ra những bản đồ sai sự thật và tuồn sang
Việt Nam trước cả khi Việt Nam cho người dân Trung Quốc biết. Đó là những thủ
đoạn đầy tính mưu lược của Trung Quốc”.
Thứ
ba:
Luật Biền 2012 của Việt Nam.
Luật Biển có 55 Điều trong 7 Chương, được Quốc Hội thông qua ngày
21/6/2012, Chủ Tịch nước ký ban hành ngày 17/7/2012, và sẽ có hiệu lực từ ngày
1/1/2013.
Điều
1. Phạm vi điều chỉnh. Luật
này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa
và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của
Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý
và bảo vệ biển, đảo.
Điều
2. Áp dụng pháp luật. Trường
hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của luật khác về chủ
quyền, chế độ pháp lý của vùng biển Việt Nam thì áp dụng quy định của Luật này.
(2) Trường hợp quy định của Luật này khác với quy định của điều ước quốc tế mà
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là thành viên thì áp dụng quy định của
điều ước quốc tế đó.
Các Anh có thấy là Luật Biển được ban hành có muộn không? Với tôi,
“dù muộn còn hơn không”. Tại sao muộn? Tại vì nhóm lãnh đạo CSVN nhu nhược, sợ Trung Cộng lấy lại cái gọi là “16 chữ
vàng và 4 tốt” thì mất ghế ngồi, mất quyền lực, mất quyền lợi, thậm chí mất mạng
như tình cảnh ông Võ Văn Kiệt vậy. Mãi đến lúc, không phải nước mới đến chân
mà là nước ngập đến đùi, đành phải ra lệnh Quốc Hội thông qua Luật Biển để vuốt
ve đồng bào bày tò lòng yêu nước qua những cuộc biểu tình phản đối Trung Cộng
gậm nhấm biển đảo của Việt Nam.
Nhân đây, tôi nhắc để Các Anh nhớ lại
(nếu đã biết) hoặc để biết rõ
(nếu chưa biết) vài sự kiện quan trọng, cho thấy Trung Cộng “gậm nhấm” đất liền và biển cả
Việt Nam chúng ta như thế nào, và phản ứng của một số lãnh đạo CSVN hèn hạ ra
sao:
(1)
Năm 1988, với chính sách “gậm nhấm”, Trung Cộng lần lượt đánh chiếm hoặc lấn
chiếm một số đảo trong quần đảo Trường Sa. Cứ mỗi lần chiếm đóng một đảo, lãnh
đạoTrung Cộng với lãnh đạo CSVN tuyên bố hai bên cùng giải quyết trong hòa bình,
nhưng rồi lãnh đạo CSVN vẫn để nguyên trạng mất đất chớ không giải quyết gì cả,
và một đảo khác lại vào tay Trung Cộng. Cứ như vậy mà 8 đảo lần lượt đã vào tay
Trung Cộng.
(2)
Ngày 30/12/1999 tại Bắc Kinh, lãnh đạo CSVN với lãnh đạo Trung cộng đã ký Hiệp
Ước biên giới trên bộ, và ông Nông Đức Mạnh với tư cách Chủ Tịch Quốc Hội đã phê
chuẩn ngày 9/6/2000. Theo đó, biên giới Việt Nam mất 789 cây số vuông vào tay
Trung Cộng, bao gồm Ải Nam Quan và 3/4 thác Bản Giốc.
(3)
Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch nhà nước Trần Đức Lương sang Trung Cộng với danh nghĩa
thăm viếng thiện chí, nhưng thật sự là ký Hiệp Ước bán 11.362 cây số vuông trên
vịnh Bắc Việt với giá 2.000.000.000 mỹ kim (2 tỷ) cho lãnh đạo Trung Cộng tại
Bắc Kinh.
(4)
Ngày 3/6/2011, bên lề hội nghị quốc tế tại khách sạn Shangri-La ở Singapore, Bộ
trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh, khẳng định với Bộ Trưởng Quốc
Phòng Trung Cộng Lương Quang Kiệt rằng : "Việt Nam và Trung Quốc là anh em tốt,
đối tác tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt" (4 tốt). Theo TTXVN, Đại Tướng Phùng Quang Thanh
còn nói với Trung Cộng, là vụ tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02, ngày 26/5/2011
bị tàu hải giám của Trung Cộng cắt cáp, chỉ là chuyện nhỏ, không ảnh hưởng đến
"truyền thống hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt-Trung".
Các Anh vẫn nhớ là đã có hằng ngàn tàu thuyền của ngư dân Việt Nam
đã bị tàu của Trung Cộng đâm chìm, tài sản trên tàu thuyền bị chúng tịch thu,
ngư dân bị chúng bắt và chỉ thả ra khi đóng tiền chuộc, vậy mà quân đội “Nhân
Dân” Việt Nam nói chung và Hải Quân “Nhân Dân” nói riêng, đã im lặng như Người
Lính vô cảm với Nhân Dân dù danh xưng của quân đội gắn liền hai chữ “Nhân
Dân”.
(5)
Ngày 28/8/2011, theo bản tin thông tấn xã Việt Mam, thì Tướng Nguyễn Chí Vịnh,
Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong buổi họp với Tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng
Tham Mưu Trưởng quân đội Trung Cộng tại Bắc Kinh, Tướng Vịnh nói: "Nếu Việt Nam
cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung
Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng... Việt Nam sẽ ‘kiên quyết xử lý vấn đề
tụ tập đông người ở Việt Nam, và dứt khoát không để sự việc tái
diễn... Việt Nam không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung
Quốc”.
(6) Trong những năm 2010, 2011, và nửa đầu năm 2012, tàu Trung
Cộng thường xuyên săn đuổi ủi chìm tàu cá Việt Nam, và bắt giữ đòi tiền chuộc
hằng ngàn ngư phủ Việt Nam, trong khi tài sản của ngư dân Việt Nam bị chúng tịch
thu.
Vì vậy mà Công An Nhân Dân -tôi nhấn mạnh hai chữ “Nhân Dân”-
thẳng tay đàn áp Nhân Dân qua 12 cuộc biểu tình kể từ cuộc biểu tình lần 1 vào
ngày 5/6/2011 và các cuộc biểu tình trong tháng 6 &7/2012, bày tỏ lòng yêu
nước phản đối Trung Cộng lấn chiếm Biển Đông của Việt Nam. Các Anh vẫn chưa quên
hành động đáng phẫn nộ đó chớ? Và Các Anh đang nghĩ gì?
Thứ
tư:
Hành động của Trung Cộng
trên Biển Đông.
Đặc
biệt là những hoạt động c ủa Trung Cộng trên Biển Đông trong những tháng vừa
qua, có tính cách thách thức Việt Nam lẫn Phi Luật Tân:
(2)
Ngày 24/7/2012, Trung Cộng
thành lập thành phố Tam Sa, là một
thành phố cấp địa khu, thuộc
tỉnh Hải Nam. Thành phố được giao một khu vực mà nhiều nước tranh chấp chủ
quyền: Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, quần đảo Trung Sa (bãi
Macclesfield và bãi cạn Scarborough), cùng vùng biển chung quanh. Trung
Cộng đặt chính quyền thành phố
Tam Sa tại đảo Phú Lâm mà họ gọi là Vĩnh Hưng. thuộc quần đảo Hoàng Sa. Bộ chỉ
huy của lực lượng này cũng đóng trên đảo Phú Lâm. Trung Cộng đã công bố
danh sách 45 đại biểu vừa được bầu vào cơ quan lập pháp thành phố Tam
Sa.
(3)
Ngày 1/8/2012, theo bản tin của tỉnh Hải Nam thì họ sẽ làm chủ Biển Đông với hạm
đội tàu cá lên đến 22.000 chiếc và 225.000 ngư dân. Trong số ngư dân, có đến
110.000 ngư dân sẽ được võ trang. Riêng đoàn tàu cá loại lớn với 5.000 chiếc, sẽ
dàn trải khắp vùng biển từ hải phận Bà
Rịa Vũng Tàu đến quần đảo Trường Sa. Ngày 2/8/2012, tỉnh Quảng Đông cho
biết, hơn 1.000 tàu cá của thành phố Dương Giang đã hướng ra Biển Đông, ngay sau
lời của Phó Chủ Tịch tỉnh Quảng Đông Liu Kun tuyên bố lễ hội đánh cá bắt đầu.
Phải chăng, Trung Cộng sử dụng đoàn tàu
đánh cá khổng lồ của chúng để bao vây lấn chiếm Biển Đông, hay ít nhất là bao
vây vùng đánh cá rộng lớn trên Biển Đông của Việt Nam?”
Trong
khi hành động
của Trung Cộng xem Biển Đông như ao nhà của chúng, vậy mà ngày 28/7/2012, Bộ Quốc Phòng
CSVN đã gọi
hàng trăm sĩ quan
thuộc
các Quân
Chủng, Binh Chủng,
các Quân Khu đã từng học
quân sự ở
Trung Cộng
trong
buổi
họp mặt để chào mừng
ngày thành
lập
quân đội Trung Cộng 1 tháng 8, do Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ
Trưởng Quốc phòng,
và Tướng Ngô Xuân Lịch, Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị chủ
tọa (Các Anh gọi là chủ trì). Ngoài ra,
còn có Thứ Trưởng là Tướng Nguyễn Thành Cung, Tướng Nguyễn Chí Vịnh, và Tướng Mai Quang Phấn, tham
dự.
Đặc biệt là sự có mặt của
đại biện lâm thời Trung Cộng Khương Tái Đông,
cùng với
tùy viên quân sự của họ.
Theo bản
tin Thông Tấn Xã Việt Nam, đây
là “dịp thể hiện lòng biết ơn sự giúp đỡ của Trung Cộng
đào tạo cán bộ cho quân đội Việt Nam, đồng thời biểu dương các
sĩ quan từng được Trung Quốc đào tạo đã đóng góp chiến thắng mọi kẻ
thù xâm lược”. Tướng
Phùng Quang Thanh nói: “Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình,
chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng
Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam”.
Thay mặt quân đội Việt Nam, ông Thanh gửi tới Quân Ủy Trung Ương
và quân
đội Trung Cộng
“lời chúc mừng tốt đẹp nhất” nhân ngày thành lập.
Còn
báo Quân Đội Nhân Dân
của Các Anh, có bài tường thuật chi tiết về “tình cảm biết ơn” của Quân Đội Nhân
Dân Việt Nam đối với quân
đội Trung Cộng trong buổi gặp mặt này,
dưới
dòng chữ
“khắc ghi tấm lòng nhường cơm sẻ áo”
của Trung Cộng. Trong
diễn từ khai mạc, Tướng
Mai Quang Phấn “khẳng định sự giúp đỡ của Trung Cộng
đã đem lại ‘kết quả to lớn cho Việt Nam”. Cuộc gặp mặt “vừa
bày tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ quý báu
của Trung Cộng, vừa là hoạt động thiết thực góp phần tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu
nghị hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện giữa hai Đảng, Nhà nước,
và
Quân Đội với
Nhân Dân hai nước ngày càng bền chặt”. Trong
diễn từ của Tướng P.Q. Thanh, có đoạn “khẳng định đặc biệt coi trọng quan hệ với giải phóng quân Trung Quốc,
coi đây là chủ trương nhất quán, và là ưu tiên hàng đầu.
Đại Biện lâm thời Trung Cộng
là Khương Tái Đông,
nhận
định: “Quan hệ hai nước đang có bước phát triển tốt đẹp”. Ông Đông
còn nhắc đến quan hệ giữa hai nước là “núi liền núi, sông liền sông, vừa là đồng chí vừa là anh em”
nữa
chớ.
Các Anh đọc tiếp đoạn văn ngắn này mà tôi trích từ bài viết của
tác giả Vũ Cao Đàm, giúp Các Anh
nhận rõ thêm về chính sách bang giao quy lụy của lãnh đạo CSVN đối với
Trung Cộng:
“Năm
2010, tôi đọc được một bài báo sặc mùi hiếu chiến được đăng trên trang mạng
“Trung Quốc Binh Khí Đại Toàn” là một trang mạng của Trung Cộng. Tôi đã dịch và
gửi đăng trên trang Bauxite Việt Nam (BVN).
Ngay sau khi BVN
đăng tải, tôi rất vui mừng vì bản dịch rất nhanh chóng lan truyền trên các trang
mạng và blog của Cộng Đồng Việt Nam, và nhận được những lời bình luận sôi sục
tình cảm yêu nước thương nòi, căm thù bọn cộng sản xâm lược khát máu Đại Hán, và
thức tình lương tri của những ai đang còn mê muội ảo tưởng vào giọng lưỡi xảo
trá “đồng chí quốc tế vô sản, anh em môi hở răng lạnh, bốn tốt, và mười sáu chữ
vàng”. Bài báo kết thúc bằng lời nguyền: “Hãy giết chết
bọn giặc Việt Nam để làm vật tế cờ cho trận chiến Nam
Sa”.
“Mấy
hôm nay, bỗng dưng dân tình lại được nghe một số phương tiện truyền thông ồn ào
những bản hợp ca… “biết ơn Đảng Cộng sản Trung Quốc anh em”, tôi sực nhớ đến bài
báo “thắm tình anh em, đồng chí, môi hở răng lạnh” của cái “Đảng bạn đểu cáng”
mà tôi đã dịch và gửi anh Nguyễn Huệ Chi cho đăng trên trang
BVN,
tôi bèn tìm lại bài báo gợi ý BVN
đăng lại để toàn dân ta thêm một dịp nhận rõ kẻ thù ngàn đời của dân tộc. Thế
rồi tôi đặt câu hỏi: Vì sao cái mà một số kẻ được gọi là “đảng anh em” lại đi
rao giảng cái bài “giết giặc Việt”? Vì sao chúng gọi nhân dân “anh em” là
“giặc”? Nhưng đau hơn, là vì sao mà một số người vẫn tâng bốc chúng là “ân
nhân”, lại vuốt ve chúng là “anh em đồng chí”? Họ“khôn khéo hay họ mơ
ngủ?”
Đến
đây Các Anh có nhận ra “một số người vẫn tâng bốc ...” mà ông Vũ Cao Đàm nói
đến, chính là nhóm lãnh đạo “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị, vô cùng
khiếp nhược với lãnh đạo Trung Cộng rồi chớ?
Bây giờ tôi giải thích về ý nghĩa hai chữ “gậm nhấm” mà tôi sử dụng ở
trên. Vào nửa cuối thế kỷ 13, khi trao
quyền cho con (Trần Anh Tông), Vua Trần Nhân Tông có lời dạy rằng: “Các người chớ quên, chính nước lớn mới
làm những điều bậy bạ, trái đạo làm người. Vì rằng họ cho mình cái quyền
nói một đường làm một nẻo, vô luân. Cho nên cái họa lâu đời của ta là
họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải, các
việc trên khiến Ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn là họa ngoại xâm. Họ không tôn
trọng biên giới theo qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh
chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai
và hải đảo của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại
bàng thành cái tổ chim chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn: "Một tấc
đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng
để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu."
Các
Anh có cảm thấy
thấm thía không? Lời dạy từ thế kỷ 13, nay là thế kỷ 21 mà vẫn nguyên giá trị,
vì rõ ràng và chắc chắn là Trung Cộng -kẻ thù của dân tộc chúng ta từ trong lịch
sử- đang gậm nhấm “cái tổ đại bàng” Việt Nam chúng ta. Với mức độ khiếp nhược
của nhóm lãnh đạo CSVN, rồi bao lâu nữa đây, “cái tổ đại bàng” này không
chỉ trở thành “cái tổ chim chích”
trong lời răn dạy của Vua Trần Nhân Tông, mà trở thành “cái gì đó nằm trong ống
tay áo của Trung Cộng”. Cái gì đó, rất có thể là một văn bản chánh thức “Việt
Nam trở về với nước Tàu” đúng theo “Biên Bản tối mật” trong cuộc họp giữa Nguyễn
Văn Linh Tổng Bí Thư đảng CSVN, và Đỗ Mười Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện
lãnh đạo CSVN, với Giang Trạch Dân Tổng Bí Thư, và Lý Bằng Thủ Tướng, đại diện
lãnh đạo Trung Cộng, trong ngày 3 & 4/9/1990 tại thành phố Thành Đô của
Trung Cộng, mà Wikileaks đã phổ biến giữa năm 2011.
Tôi
trích đoạn cuối
Biên Bản đó giúp Các Anh đọc tài liệu này để hiểu rõ lãnh đạo của Các Anh:
“....Việt Nam bày tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận, và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng
quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung
Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Hoa đã đồng ý và
chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm (1990-2020)
để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia
đình các dân tộc Trung Hoa”.
Đến đây, Các Anh hãy đọc lại thư tôi gởi Các Anh từ số 1 hồi tháng
11/2011 đến Thư số 10 hồi tháng 8 vừa qua (2012), rồi hình dung những sự kiện
trong các thư đó vào một chuỗi, để
Các Anh khả dĩ có đủ yếu tố mà đánh giá: “Liệu có phải các
nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị CSVN, đã và đang đưa dân tộc Việt Nam trở thành
dân tộc thiểu số của Trung Cộng vào năm 2020 không?” Các Anh hãy
chứng nghiệm trong thực tế, là những vũ khí tối tân mà lãnh đạo CSVN mới mua chỉ
để vuốt ve sự phẫn nộ của đồng bào, chớ chưa một lần sử dụng để ngăn chận hành
động của Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam, và hành động
lấn chiếm đảo biển của Việt Nam, thậm chí cũng không dám đuổi tàu cá của Trung
Cộng tràn lan tưởng như đen ngòm Biển Đông nữa..
Thứ
năm:
Giả thuyết về hành động
của Trung Cộng.
Căn
cứ
vào một loạt hành động của Trung Cộng ngay trước và sau khi Quốc Hội Việt Nam
thông qua Luật Biển ngày 21/6/2012, tôi ước
tính những hành động có tính cách chiến lược của Trung Cộng trong thời gian
trước mắt, dưới dạng “giả thuyết”:
Giả
thuyết 1 và phân tách. Trong
khi Lục Quân sẳn sàng dọc biên giới Trung-Việt, lực lượng công nhân Tàu sẳn sàng
tại các công trường khắp nội địa Việt Nam, thì một lực lượng nhỏ của Hải Quân
ngụy trang dưới dạng tàu Hải Giám hay tàu Tiếp Liệu chẳng hạn, yểm trợ “Hạm Đội
Tàu Cá” gần 30.000 chiếc mà ngư dân được võ trang dưới tên gọi “Dân Quân Biển”
của Trung Cộng lấn chiếm từng đảo rồi từng đảo, dẫn đến các đảo và quần đảo của
Việt Nam lần l ượt sẽ vào tay Trung Cộng. Cũng nên lưu ý, cộng sản nói chung và
Trung Cộng nói riêng, rất gian manh mánh khóe, cho nên rất có thể Dân Quân Biển
của họ chính là “Thủy Quân Lục Chiến” của họ ngụy
trang.
Với giả thuyết này, Trung Cộng tránh né được sức mạnh quân sự của
Hoa Kỳ và của Phi Luật Tân, nhưng với Việt Nam chắc Trung Cộng không gặp khó
khăn. Dù rằng trong hai năm trở lại đây, đã nhiều lần Hoa Kỳ khẳng định quyền lợi hàng hải của mình
trên Biển Đông. Để chứng minh những lời tuyên bố trong những hội nghị trong vùng
Đông Nam Á và trong những hội nghị quốc tế, Hoa Kỳ chánh thức tuyên bố trở lại
vùng Châu Á Thái Bình Dương. Với sự hình thành trục liên kết giữa Hoa Kỳ - Úc
Đại Lợi - Ấn Độ, góp phần nói lên sự trở lại của Hoa Kỳ trong thế phòng thủ
chung vùng này, mà khu vực trọng yếu là hành lang Biển Đông nối vào eo biển
Malacca phía nam để qua Ấn Độ Dương, và ngược lên ngang qua quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa trước khi đến các
quốc gia vùng Đông Bắc Á Châu
& Thái Bình Dương. Ngày 26/07/2012, Ông Leon Panetta, Bộ Trưởng Quốc Phòng
Hoa Kỳ, chấp thuận kế hoạch điều động phi đội máy bay chiến đấu tàng hình F-22
đến căn cứ không quân Hoa Kỳ tại Nhật Bản.
Tôi
vẫn không quên là trong thời gian gần đây, Không Quân với Hải Quân của Phi Luật
Tân lẫn của Việt Nam, được gia tăng đáng kể về khả năng tuần thám và chiến đấu.
Tuy chưa phải là hùng mạnh so với hai quân chủng đó của Trung Cộng, nhưng cũng
thể hiện ít nhiều về trách nhiệm bảo vệ phần lãnh hải của mình, nhất là Phi Luật
Tân. Còn lãnh đạo CSVN, mua để phô
trương chớ không để ngăn chận Trung Cộng mà thực tế
đã chứng minh điều đó, có lẽ họ “sợ mất 16 chữ vàng và 4 tốt” chăng?
Dĩ
nhiên là Trung Cộng thừa biết sức mạnh của Hoa Kỳ, nhưng rất có thể Trung Cộng
lợi dụng điều mà Trung Cộng cho rằng, cả hệ
thống chính trị Hoa Kỳ đang bận rộn với
cuộc bầu cử Tổng Thống và Nghị Sĩ cùng Dân Biểu vào đầu tháng 11/2012 tới đây,
mà sử dụng “Hạm Đội Tàu Cá” gần 30.000 chiếc để “gậm nhấm” Biển Đông. Nếu áp
dụng giả thuyết này, cầm chắc là Trung Cộng sẽ phải “tứ bề thọ địch” về ngoại
giao nhiều hơn là về quân sự. Nhưng, nếu Trung Cộng sử dụng Hải Quân với Không
Quân tấn công toàn diện Biển Đông thì tổn thất khó mà lường được trước sức mạnh
quân sự của Hoa Kỳ, dù Hoa Kỳ đang bận rộn bầu cử Tổng Thống. Nếu Hoa Kỳ không trực tiếp tham chiến, hóa
ra Hoa Kỳ là “con cọp giấy” sao? Vì Hoa Kỳ đã nhiều lần tuyên bố Hoa Kỳ có quyền
lợi trên hành lang Biển Đông mà.
Và
như vậy, giả thuyết này với cơ hội Trung Cộng áp dụng ước
tính khoảng 40%. Tôi ước tính chỉ đến
40% là vì “Dân Quân Biển” hay “Thủy Quân Lục Chiến” ngụy trang, với nguy cơ rất
cao trong khả năng tạo nên trận hải chiến chỉ vì một vài hành động va chạm với
đối phương của họ, cho nên Trung Cộng không dại gì mà mạo hiểm.
Giả
thuyết 2 và phân tách. Sử
dụng Hải Quân và Hạm Đội Tàu Cá dàn trải khắp các khu vực trọng yếu trên Biển
Đông, Lục Quân vẫn sẳn sàng chiến đấu dọc biên giới Trung-Việt, Không Quân sẳn
sàng tại các phi trường gần Hà Nội, Đà Nẳng, và Sài Gòn, Trung Cộng sử dụng lực
lượng bộ binh dưới dạng công nhân, hoặc công nhân được trang bị trở thành lực
lượng quân sự,và các cấp lãnh đạo công ty trở thành các cấp chỉ huy quân sự,
thực hiện cuộc đảo chánh tai Hà Nội, Đà Nẳng, Sài Gòn, và Cần Thơ, lật đổ nhóm
lãnh đạo trong Bộ Chính Trị và bộ máy đảng, lật đổ chánh phủ và bộ máy nhà nước,
đưa các tay chân thân tin cũng là Việt Nam nhưng là những tay sai trung thành
của Trung Cộng lên cầm quyền, và tất cả sẽ đặt dưới sự thống trị của viên chức
Trung Cộng như viên Thái Thú ngày xưa chẳng hạn. Trường hợp này, quốc tế khó mà
viện dẫn lý do để đưa ra phản ứng mạnh mẽ được.
Vậy là cả Việt Nam bao gồm Hoàng Sa Trường Sa, vào tay Trung Cộng.
trong khi Trung Cộng rất ít tổn thất nhân mạng, rất ít tổn thất dụng cụ chiến
tranh, rất ít chi phí, ít cơ hội bị quốc tế lên án cùng với những biện pháp
trừng phạt. Song song đó, Trung Cộng được lãnh đạo Cam Bốt canh chừng CSVN từ
biên giới Cam Bốt-Việt Nam, giúp tăng thêm thuận lợi cho Trung Cộng, vì Cam Bốt
đã chứng tỏ sự trung thành của họ trong vai Chủ Tịch hội nghị ASEAN hồi tháng 7
vừa qua (2012), đến mức hội nghị không đưa ra được bản Tuyên Bố Chung vì bất
đồng trên hồ sơ Biển Đông.
Giả thuyết này với cơ hội Trung Cộng áp dụng ước tính tới
60%.
Thứ
sáu: Kết
Luận.
Nhóm
lãnh đạo của Các Anh mà tôi gọi đúng với nghĩa đen là “đỉnh cao gian trá” trong
Bộ Chính Trị, rõ ràng và chính xác là họ đặt quyền lợi tổ quốc dân tộc dưới
quyền lợi của đảng cộng sản, từ đó chính sách bang giao với Trung Cộng là chính
sách quy lụy phục tùng để
đảng cộng sản tồn tại, vì vậy mà phản ứng của họ chỉ
để vuốt ve sự phẫn nộ của đồng bào thôi. Hẳn là Các Anh còn nhớ, ngày 28/8/2011, Thông Tấn Xã Việt Nam loan tin
rằng: ”Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong buổi
họp với Thượng Tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Trung Cộng
tại Bắc Kinh, đã tuyên bố: "Nếu Việt Nam
cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung
Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng... Việt Nam sẽ kiên quyết xử lý vấn đề
tụ tập đông người ở Việt Nam, và dứt khoát không để sự việc tái
diễn... Việt Nam không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung
Quốc”. Vì nhóm lãnh đạo sợ mất ghế ngồi, mất
quyền lực, mất quyền lợi, thậm chí là mất mạng dễ dàng, nên không dám hành động
trái ý Trung Cộng. Hãy nhớ, cộng sản là chủ nghĩa giết người mà.
Các Anh hãy dành chút thì giờ để bình tâm mà nhận định chuỗi sự
kiện vừa đọc, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính Các Anh chớ không phải
tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô
cảm nữa, mà hãy đứng về phía đồng bào và hành động đúng với bổn phận công dân là
Bảo Vệ Tổ Quốc, Bảo Vệ Nhân Dân.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản
tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người
Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những
thế hệ làm nên lịch sử.
“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà
tặng”.
Texas, tháng 9 năm 2012
PHẠM BÁ HOA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét