Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

Trường ca - Lời ru của Mẹ

ĐÔNG HẢI

(đề cập sơ lược đến lịch sử dân tộc; khởi từ thời Hồng Bàng cho đến nhà hậu Lê với vua Lê Lợi...)
***
Ngày xưa không mấy xa xưa
Ngày tôi chưa lớn cũng chưa biết buồn
Chẳng buồn chiều hạ mưa tuôn
Chỉ riêng đôi mắt mẹ buồn sang thu
Ngày xưa đông đến sương mù
Hết đông vui nhộn mỗi mùa xuân qua
Giãi dầu giông bão nắng mưa
Đong đưa chiếc võng năm xưa mỗi chiều
Mẹ ru trong gió hiu hiu
Lời ru trong cõi tiêu điều gian nan
Giọng ru trong tiếng võ vàng
Hôm nay như vẫn ẩn tàng trong tôi
Ru tôi từ thuở nằm nôi
Đến khi khôn lớn thành người Việt Nam
Việt Nam- Mẹ bảo Việt Nam
Việt Nam Bách Việt họ hàng chi tông
Bách Việt con cháu Thần Nông
Cùng trong một giống Tiên Rồng mà ra
Bách Việt trăm họ một nhà
Thời xưa Âu Việt sau là Quảng Tây
Dương Việt ắt đất Giang Tây
Ngày xưa U Việt sau này Triết Giang
Quảng Đông: Đông Việt rõ ràng
Mân Việt: Phúc Kiến nối giang san nhà
Lạc Việt tức bắc Việt ta
Việt Thường: Thanh-Nghệ-Tĩnh là hôm nay
Năm mươi thế kỷ cách nay
Dần dà đất nước về tay người Tàu
Mẹ ru trong tiếng thương đau
Mẹ thương Bách Việt mất nhau phũ phàng
- Việt Nam; mẹ bảo Việt Nam
Việt Nam sau gọi Văn Lang, Hồng Bàng
Văn Lang với họ Hồng Bàng
Hồng Bàng dựng nước Văn Lang: Vua Hùng
Văn Lang mười tám đời Hùng
Một thời con Lạc cháu Hồng hoan ca
Một thời non nước thái hòa
Văn minh, văn hóa khởi đà từ đây
Yêu thương, đùm bọc, xum vầy
Yêu thương như việc: Giây, cây, cau, trầu
Ẩn trong sự tích trầu cau
Sau thành tục lệ ăn trầu nhuộm răng
Con ơi có nhớ hay chăng
Cũng trong huyền sử Văn Lang, vua Hùng
Ta còn sự tích bánh chưng
Mặt trời, trái đất: Bánh chưng, bánh dày
Lưu truyền cho đến hôm nay
Khúc quanh lịch sử sau ngay thời này
Tổ tiên Bách Việt loay hoay
Loay hoay đoàn kết để xoay cuộc thời
Thế là Âu Lạc ra đời
Hùng Vương hết nghiệp đến thời Thục lên 
(*)
(*) Văn Lang nhà Thục và vua An Dương Vương 257-207 trước Tây lịch (ttl). 
Đóng đô ở đất Phúc Yên (Phong Khê) Cổ Loa được dựng để yên sơn hà 
Vì Tần xâm chiếm nước ta 
Tần không thắng được chúng đà lui binh 
Bách Việt tái thống nhất mình 
Triệu Đà dựng nghiệp dấy binh ngập trời 
Thế là Nam Việt ra đời 
Một trời, một đất, một thời mênh mông 
Quảng Tây, bắc Việt, Quảng Đông 
Tuy chưa đủ đất cha ông giống nòi 
Nhưng là nước Việt hẳn hòi 
Đến khi Tần phải vào thời cáo chung 
Lưu Bang, Hạng Võ tranh hùng 
Lưu Bang thắng Hạng vẫy vùng bắc phương 
Nam Việt với Triệu Vũ Vương 
Khởi suy từ buổi Vũ Vương băng hà 
Hán xua quân đánh nước ta 
Nước ta tể tướng Lữ Gia kiên cường 
Nhưng không chống nổi bạo cường 
Vua, tôi bị giết quê hương thuộc Tàu 
(*) (*) Văn Lang nhà Triệu 207-111 ttl
Thời kỳ bắc thuộc lần thứ nhất từ năm 111-39 ttl
 Con ơi khởi sự thương đau 
Ngàn năm bắc thuộc khởi đầu từ đây 
Hơn trăm năm trước lịch Tây 
Đau thương, oan nghiệt đắng cay cho mình 
Cái thằng Tô Định yêu tinh 
Nó làm Thái thú đất mình gian tham 
Gian tham, ác độc, bạo tàn 
Thế nên Thi Sách mưu toan dựng cờ 
Nhưng ông chẳng đặng thời cơ 
Bị giặc bắt giết, mưu cơ không thành 
Vợ ông: Trưng Trắc xuân xanh 
Cùng em, Trưng Nhị dấy thành động binh 
Tô Định thất vía hoảng kinh 
Nó cùng bè lũ yêu tinh tan tành 
Hai Bà cứu nước công thành 
Đóng đô ở đất kinh thành Mê Linh 
(*) 
(*) Hai bà Trưng: 40-43 stl. Hai Bà ở tại ngôi được gần hai năm. Một năm đất nước yên bình 
Nào ngờ Đông Hán xua binh đánh mình 
Mã Viện là tướng cầm binh 
Nó bao vây đất Mê Linh đánh bà 
Thế cô, lực cạn quân ta 
Hai Bà thua trận, nước nhà tan hoang 
Trầm mình khi đến Hát Giang 
Trưng Vương liệt nữ danh vang một trời 
Hò ơi con hỡi, con ơi 
Thế là non nước tái hồi gian nan 
(*) 
(*) Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai: 43-544 stl
Dân ta xuống biển lên ngàn 
Để tìm châu báu bạc vàng mà dâng 
Dâng cho cái lũ ma quân 
Để thằng Mã Viện về dâng Hán triều 
Con ơi non nước tiêu điều 
Suốt hai thế kỷ Hán triều trị ta 
Chúng mưu diệt chủng dân ta
(*) 
(*)Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt.
Chúng mưu đồng hoá nước ta với Tàu 
Trầm luân, tang tóc, bể dâu 
Tiếng than dân Việt niềm đau của mình 
Nhưng mưu chúng dệt chửa thành 
Hán triều tan rã; tưởng lành cho ta 
Cục diện Tam quốc bày ra 
Đông Ngô, Thục, Nguỵ chia ba nước Tàu 
Dân ta thống khổ thương đau 
Máu xương tang tóc bể dâu trội phần 
Đông Ngô nối tiếp Hán, Tần 
Giữ nguyên chánh sách nô dân nước mình 
Nữ hùng họ Triệu tên Trinh 
Cùng anh: Quốc Việt dấy binh phạt Tàu 
Cỡi voi xuất trận đi đầu 
Đánh cho bọn chúng về Tàu mấy phen 
Nhưng Ngô vẫn giữ mộng hèn 
Truyền cho Lục Dận, một tên bạo tàn 
Binh đông, tướng dữ dẫn sang 
Nhuỵ Kiều nữ tướng hiên ngang vẫy vùng 
Quyết là giữ lấy non sông 
Nhưng không chống nổi thế công giặc thù 
Hờn này mang đến thiên thu 
Bà hy sinh bởi quân thù Đông Ngô
(*) (*) Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu: 248 stl Con ơi một mảnh cơ đồ 
Bao nhiêu thế kỷ tựa hồ diệt vong 
Mẹ tri mối hận quốc vong 
Người mình giống Việt long đong bởi Tàu 
Đến thời Nam-Bắc bên Tàu 
Nước ta vẫn cảnh thương đau tủi hờn 
Có người họ Lý tên Bôn 
(*) 
(*) Lý Bôn khởi nghĩa năm 541. Chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai. 
Nước ta được tự chủ từ năm 544-602 stl 
Anh hùng đứng dậy rửa hờn quê hương 
Đánh tan lũ giặc nhà Lương 
Dẹp yên Lâm Ấp biên cương thu hồi 
Vạn Xuân: Tên nước một thời 
Minh quân Nam Đế, vua, tôi một lòng 
An dân thái quốc những mong 
Xây chùa dựng điện nối công nhân hiền 
Kiên cường nối nghiệp tổ tiên 
Giang sơn một mối, Rồng Tiên một nhà 
Một năm thịnh trị hoan ca 
Một năm tự chủ, vua ta, quan mình 
Những đâu khói lửa đao binh 
Giặc thù phương bắc tướng, binh dẫn vào 
Chúng gieo máu lửa thương đau 
Vua, tôi nước Vạn lao đao bởi thù 
Sáu năm mai phục chiến khu 
Việt Vương họ Triệu rửa thù quê hương 
(*)
(*) Năm 544, Lý Nam Đế lên ngôi, chưa đầy một năm thì giặc nhà Lương
lại sang đánh. Ông thua nhiều trận, sắp mất nước. Ông giao binh cho
tả tướng quân Triệu Quang Phục. Lý Nam Đế mất; Triệu Quang Phục đánh bại
quân địch và lên ngôi vua. Cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử không phục.
Nội c
hiến xảy ra. 
Vẫn thời đất bắc nhà Lương 
Loạn ly đến mất nghiệp vương đế Tàu 
Nhà Trần nối tiếp theo sau 
Vạn Xuân thoát cảnh quan Tàu, dân ta 
Nhưng là nội chiến xảy ra 
Việt Vương thua trận, khởi đà quốc suy 
(*) 
(*) Lý Phật Tử đầu hàng nhà Tuỳ. Mở đầu cho thời kỳ
Bắc thuộc lần thứ ba: 602-938 stl 
Phật Tử họ Lý trị vì 
Nước ta bị mất bởi vì vua suy 
Bỉ cực tái diễn bởi Tuỳ 
Mười lăm năm hậu Tuỳ suy đến Đường 
Suốt ba thế kỷ đau thương 
Suốt ba thế kỷ đoạn trường dân Nam 
Đường cai trị nước An Nam 
Ác ôn, quỷ quyệt gian tham khôn cùng 
Con ơi đất nước khốn cùng 
Bao nhiêu nghĩa sĩ, anh hùng đứng lên 
Đánh tan lũ giặc mấy phen 
Như Mai Hắc Đế vùng lên diệt Tàu 
(722 stl) Thằng Quang Sở Khách về Tàu
Nước ta lại được ít lâu an bình
Đường say giấc mộng nam chinh
Sai Dương Tư Húc kéo binh phạt mình
Cùng Quang Sở Khách điều binh
Đường-Ngu; ngu thật với mình với ta
Con ơi xã tắc sơn hà
Vua ta bại trận, nước ta thuộc Tàu
Thuộc Tàu: Ôi! Lại thuộc Tàu
Nước mình mảnh đất thương đau dặm trường
Đến năm Đai Lịch nhà Đường
Có người hảo hớn can cường vùng lên
Phùng Hưng tên gọi thương quen 
(*) 
(*) Bố Cái Đại Vương791 stl
Ông cho lũ phỉ teng beng về Tàu 
Thái lai non nước đồng bào 
Yên vui xum họp cùng nhau một nhà 
Một lòng kiến quốc bảo gia 
Phùng Hưng một đấng quả là minh quân 
Chăn dân với cả lòng nhân 
Đại Vương Bố Cái minh quân băng hà 
Phùng An nối nghiệp vua cha 
Nhưng không giữ nổi sơn hà An Nam 
Đường cho quân đến dụ hàng 
Phùng An nhu nhược đầu hàng Triệu Xương 
Con ơi tái cảnh đau thương 
Con ơi có xót quê hương của mình 
Một dân tộc với tử sinh 
Một ngàn năm với chiến chinh chống thù 
Hiểm nguy nhất vẫn Đường-Ngu 
Chúng dùng văn hóa xây tù nước Nam 
Chúng nuôi mộng huỷ An Nam 
Chúng nuôi mộng biến người Nam thành Tàu 
Nhưng rồi chẳng đặng vào đâu 
Suốt bao thế kỷ vẫn Tàu vẫn ta 
Cuối Đường loạn lạc xảy ra 
Nguy ra cho giặc, may ra cho mình 
Khúc Thừa Dụ dấy nghiệp binh 
(906-907)
Đánh cho lũ phỉ hoảng kinh tời bời 
Tử, Sinh, yểu, thọ tại trời 
Một năm Thừa Dụ tại ngôi trị vì 
Nhưng là sao sáng một vì 
Khai thời tự trị, tôn ty tự mình 
Khúc Hạo nối nghiệp cha mình 
(907-917) 
Giữ yên bờ cõi, dân tình an cư 
Minh quân Khúc Hạo nhân từ 
Ở thời đất bắc họ Chu diệt Đường 
Lập ra giòng dõi hậu Lương 
Vẫn nuôi mộng chiếm quê hương Lạc Hồng 
Ngàn đời mộng chúng chẳng xong 
Ngàn năm đô hộ đã xong một thời 
Con ơi hùng sử một thời 
Con ơi bi sử một trời đau thương 
Ngàn năm lũ giặc nhiễu nhương 
Chỉ còn Lạc Việt, Việt Thường có nhau 
Nước ta Bách Việt là đâu 
Đất mình vẫn trải ở Tàu hôm nay 
Bao nhiêu thế kỷ cách nay 
Nhưng mà vẫn mới như ngày hôm qua 
Vẫn ghi trong dạ dân ta 
Vẫn chờ ngày nổi phong ba lôi đình 
Để đòi lại đất của mình 
Để thôi nhược tiểu như mình hôm nay 
Thế thời vận nước chẳng may 
Quảng Châu, vùng đất trên tay Lương triều 
Lưu Nham phản lại Lương triều 
Chiếm vùng đất ấy lập triều đình riêng 
Lập ra Nam Hán một miền 
Lũ này là mối oan khiên cho mình 
Lý Tiến với Lương Khắc Trinh 
Hai thằng chiếm giữ Tống Bình nước ta 
Hán triều bắt giữ vua ta 
Tướng Dương Diên Nghệ quả là trung quân 
(931-937)
Ông nuôi chí với ba quân 

Vùng lên một trận đuổi quân hung tàn 
Nối trang lịch sử vẻ vang 
Vua quan nhà Hán như tan cả hồn 
Cho quân tiếp viện rửa hờn 
Tướng giặc: Trần Bảo xác chôn quê mình 
Hán triều thất vía hoảng kinh 
Nước ta lại được thái bình dân an 
Nhưng Kiều Công Tiễn phản thần 
Giết Dương Diên Nghệ vương quân đoạt quyền 
Kiều là tuỳ tướng đương quyền 
Rể Dương Diên Nghệ: Ngô Quyền dấy quân 
(938) Dấy quân diệt kẻ phản thần 
Kiều liền xin Hán cho quân đến nhà 
Ngô Quyền đoán biết phong ba 
Giết Kiều để chiếm Đại La kinh thành 
Rồi mau đối phó chiến tranh 
Chiến tranh chống Hán, chiến tranh giữ nhà 
Quyết tâm nối chí nhạc gia 
Quyết tâm bảo vệ san hà nước Nam 
Hoằng Thao dẫn thuỷ binh sang 
Còn vua cha trấn ở đàng Hải Môn 
(Quảng Đông) 
Sẵn sàng tiếp ứng cho con 
Hoằng Thao theo vịnh Hạ Long đánh vào 
Ngô Quyền dụ chúng đuổi vào 
Đến khi nước rút ào ào tấn công 
Hoằng Thao tháo chạy trên sông 
Tàu thuyền thủng đắm bởi chông bịt đồng 
Máu thù nhuộm đỏ dòng sông 
Xác thù chìm nổi khắp sông Bạch Đằng 
Hoằng Thao chết trận Bạch Đằng 
Vua Nam Hán khóc để rằng lui quân 
Ngô Quyền đại thắng Hán quân (*)
 
(*) Ngô Quyền đại thắng Hán quân năm 938 đã thật sự chấm dứt
một ngàn năm đô hộ của giặc phương bắc. Mở thời tự chủ cho dân tộc. 
Mở thời tự chủ cho dân tộc nhà 
Xưng vương đóng ở Cổ Loa 
Năm năm đất nước thái hòa yên vui 
Ngô vương vắn số qua đời 
Tam Kha em vợ; cướp ngôi cháu mình 
Khai thời nội chiến đao binh 
Hăm hai năm lẻ điêu linh nước nhà 
Mười hai quân sứ một nhà 
Mười hai quân sứ trong nhà nước Nam 
Tổ tiên phò trợ nước Nam 
Ông Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan quần hùng 
Chỉ trong mấy tháng vẫy vùng 
Sơn hà thống nhất trùng phùng quê hương 
Đinh Bộ Lĩnh: Vạn Thắng Vương 
(968-980) 
Nước Đại Cồ Việt; quân vương Tiên Hoàng 
Hoa Lư là đất cưu mang 
Hoa Lư cũng đất Tiên Hoàng đóng đô 
Giữ yên non nước cơ đồ 
Mười hai năm hậu cơ đồ Đinh tan 
Tướng quân thập đạo Lê Hoàn 
Lên ngôi để giữ giang san nước nhà 
Nhà Tiền Lê được mở ra
 
(nhà tiền Lê 980-1009
Đại Hành hoàng đế quả là xứng danh 
Bình Chiêm, phá Tống công thành 
Chi Lăng chiến thắng vang danh một thời 
Hăm bốn năm ở tại ngôi 
Sơn hà xã tắc một thời an khang 
Khởi suy từ lúc vua băng 
Các hoàng, thái tử lăng xăng tranh giành 
Lê Long Đỉnh giết vua anh 
Phá tan sự nghiệp thanh danh Lê triều 
Thế là hậu Lý lập triều 
(1010-1225) 
Một triều bền vững với nhiều minh quân 
Sống thời tự chủ quân, thần 
Tống kiêng, Xiêm nể, Chiêm thần phục ta 
Thánh Tông vua Lý băng hà 
Nhân Tông bảy tuổi thay cha nối giòng 
Bên Tàu thời Tống Thần Tông 
Với Vương An Thạch nghênh ngông bạo tàn 
Mưu toan thôn tính nước Nam 
Vua ta biết được mưu toan của Tàu 
Sai hai tướng giỏi phạt Tàu 
Thường Kiệt, Tôn Đản: Hai đầu xuất binh 
Tôn Đản thống lãnh bộ binh 
Lý Thường Kiệt dẫn thuỷ binh tiến vào 
Đánh Tàu ngay tại đất Tàu 
(1075) 
Đánh cho chúng hết mưu cầu nhiễu nhương 
Ta tiên hạ thủ vi cường 
Biết mình, biết địch, biết nương thiên thời 
Vua quan nhà Tống tơi bời 
Vừa cay, vừa thẹn với người với ta 
Năm sau chúng tiến binh qua 
Tống, Chiêm, Chân Lạp kết ba đánh mình 
Hai năm vây bủa nước mình 
Cuối cùng chúng phải điều đình rút quân 
Bởi Lý Thường Kiệt đại thần 
Với thơ khích lệ dân, quân một lòng 
Bốn câu thơ dậy bể đông 
Nức lòng chiến sĩ, nức lòng dân Nam 
“Nước Nam là của vua Nam 
Sách trời đã định rõ ràng chẳng sai 
Quân xâm lăng trái ý trời 
Một phen thảm hại tời bời một phen” 
(*)
(*) Bàng Bá Lân dịch
NAM QUỐC SƠN HÀ
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghich lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!”
LÝ THƯỜNG KIỆT
Quả như tiếng sấm vang lên 
Bài thơ như triệu mũi tên chống thù 
Lưu truyền cho đến thiên thu 
Sáng ngời chính ngha chống thù cứu quê 
Thế rồi hậu Lý suy hề 
Nhà Trần dựng nghiệp ta hề vẻ vang
(*) 
(*) Nhà Trần 1225-1400. Nhà Trần thắng quân Mông cổ ba lần
Lần thứ nhất:1257. Lần thứ hai: 1285. Lần thứ ba: 1288 
Năm châu cũng phải ngỡ ngàng 
Bởi dân nước Việt ba lần thắng Mông 
Lần đầu với Trần Thái Tông 
Rồi sau liên tiếp Nhân Tông hai lần 
Khởi nghiệp Mông: Thiết Mộc Chân 
Vượt qua Vạn lý trường thành; Trung Hoa 
Vua quan nhà Tống xuýt xoa 
Đông Âu, trung Á cũng đà hàng Mông 
Vương quân các nước rúng lòng 
Giặc Mông như trận cuồng phong được đà 
Thành Cát Tư Hãn băng hà 
Cháu Hốt Tất Liệt; con A Loa Đài 
Chia nhau đánh chiếm khắp nơi 
Một nửa thế giới như rơi cả hồn 
Trung Hoa; nhà Tống phải vong 
Triều Tiên, Tây Tạng cũng trong cảnh tình 
Ba Lan, Hung phải mở thành 
Nga La Tư cũng dâng thành cho Mông 
Hẳn là một trận cuồng phong 
Thế mà Mông phải hết ngông bởi mình 
Ba lần tiến đánh nước mình 
Ba lần đại bại tan tành thảm thương 
Trần Quốc Tuấn: Hưng Đạo Vương 
Vân Đồn, Tây Kết, Chương Dương, Bạch Đằng 
Hàm Tử, Vạn Kiếp lừng danh 
Xác thù như núi xứng danh Lạc Hồng 
Toa Đô chết giữa binh đông 
Thoát Hoan phải rúc ống đồng mà đi 
Phàn Tiếp với Ô Mã Nhi 
Bị ta bắt sống trong khi rút về 
Sài Thung chột mắt chạy về 
Mông-Nguyên phải bỏ mộng hề chiếm ta 
Một lòng “sát Thát” quân ta 
Diên Hồng hội nghị quả là trứ danh 
Đại Vương Hưng Đạo xứng danh 
Anh Hùng dân tộc lưu danh muôn đời 
Hưng vong cũng tại bởi trời 
Nhà Trần hết nghiệp đến thời suy vi 
Tiếm ngôi bởi Hồ Quý Ly 
(1400-1407) Non sông tái cảnh lâm ly đoạn trường 
Nhà Minh được dịp nhiễu nhương 
Nối mưu thôn tính quê hương của mình 
Mượn danh đánh tiếng phò Trần 
Mộc Thạnh, Trương Phụ tướng quân Minh Tàu 
Dẫn binh hai ngả tiến vào 
Con ơi đất nước rơi vào tay Minh 
(1414-1427) 
Mười ba năm thuộc nhà Minh 
Sơn hà xã tắc điêu linh tủi hờn 
Địa linh nhân kiệt Lam Sơn 
Phất cờ khởi nghĩa rửa hờn quê hương 
Ông Lê Lợi: Bình Định Vương
(*) (*) Cuộc khởi nghĩa 10 năm của Lê Lợi 1418-1427
Đã chấm dứt thời đô hộ của giặc Minh
và lập ra nhà hậu Lê: 1428- 1527.
 Đại thần Nguyễn Trãi phò vương đuổi thù
Chí Linh dưỡng địa chiến khu
Chi Lăng, Tuỵ Động ngàn thu lẫy lừng
Mười năm khởi nghĩa oai hùng
Liễu Thăng bị giết, Vương Thông đầu hàng
Mộc Thạnh bao bận chạy làng
Nước Nam linh địa ngổn ngang xác thù
Lê Lai gương sáng ngàn thu
Bình Ngô Đại Cáo; chứng từ vẻ vang
Hậu Lê dựng nghiệp hiên ngang
Với Lê Thái Tổ nối trang sử hùng
Nối thời tự chủ non sông
Nối giòng hào kiệt, nối công anh hùng…
 
 ***
Mời quý vị đọc Cầu Tre Lắc Lẻo [ngắn gọn] qua đường dẫn:ĐÔNG HẢI: Tâm Tư Người Viễn Xứ.

********
TRẦM THY TRANG.
 
Ngàn vàng không kết mối tri âm,
Bởi mến ngũ cung, chuộng áng trầm.
Mặc khách có duyên xin đáo lại,
Chung trà lữ thứ tải chân tâm.
 
TRẦM THY + ĐÔNG HẢI - Úc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét