Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2012

Thơ Đường Luật và thơ tự do

GS. Nguyễn Thanh Liêm

Bài thơ Ðường luật là bài thơ xưa với niêm luật hết sức khắc khe, nghiêm túc, thành hình từ đời Ðường bên Trung Hoa, do đó mà người ta gọi là thơ Ðường luật (ở Việt Nam cũng có người gọi là Hàn luật vì Hàn Thuyên đời Trần là người Việt Nam đầu tiên dùng thể loại này để sáng tác thơ văn). Bài thơ Ðường luật có số câu nhất định là tám câu (bát cú) và mỗi câu có số chữ nhất định là bảy chữ (thất ngôn), không hơn không kém. Bài thơ chỉ có năm vần (tám câu năm vần), toàn là vần bằng, và phải gieo ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, và 8. Thí dụ:

“Trấn bắc hành cung cỏ dãi dầu
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
Một tòa sen tỏa hơi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu

Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ đâu đâu tá
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.”
(Bà huyện Thanh Quan, Chơi Chùa Trấn Quốc)

Nếu là vần trắc, hoặc nếu chỉ có bốn vần thì bài thơ sẽ là một biến thể và có thể là bài thơ cổ phong. Thí dụ :

“Vành mâm xôi đề thằng Lạc
Nghĩ mình ti tiện không đài các
Văn chương chẳng phải bọn mèo quào
Danh phận không ra cái cóc rác
Bởi rứa bơ thờ thẹn núi sông
Dám đâu vúc vắc ngạo cô bác
Việc này dầu có thấu lòng chăng
Trong có ông thần ngoài cặp hạc.”
Học Lạc, Thơ Tạ Hương Ðảng)

Luật bằng trắc áp dụng thật chặt chẽ cho các chữ thứ nhì, thứ tư, thứ sáu và thứ bảy của mỗi câu (câu chẳng cũng như câu lẽ), và không được lầm lẫn. Các câu trong bài thơ ở vị trí nào sẽ phải đóng trọn vai trò của nó trong vị trí đó. Thường thì người ta phân biệt 2 câu đầu là Khởi tức mở đề, rồi đến 2 câu Thừa (cũng gọi là cặp Trạng hay Thực), 2 câu kế nữa là Chuyển (hay 2 câu Luận) và 2 câu sau cùng là Hợp (tức là hai câu Kết). Hai câu Thừa (cặp Trạng), tức câu 3 và câu 4, bắt buộc phải đối nhau, từng chữ, từng phạm trù, kể cả bằng trắc. Hai câu 5 và 6, tức cặp Luận cũng phải đối nhau thật chỉnh như vậy. Thí dụ về các câu đối nhau trong cặp thực:

“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.”
(Nguyễn Khuyến, Thu Ẩm)
“Xanh om cổ thụ tròn xoe tán’
Trắng xóa trường giang phẳng lặng tờ.”
(Bà Huyện Thanh Quan, Tức Cảnh Chiều Thu)

Và đối trong cặp luận:

“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.”
(Nguyễn Khuyến, Thu Ẩm)
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mõi miệng cái gia gia.”
(Bà Huyện Thanh Quan, Qua Ðèo Ngang)

Ðối trong cả 4 câu thực và luận:

“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương,
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.”
(Bà Huyện Thanh Quan, Hoài Cổ)

“Nước biếc coi như tầng khói phủ,
Song thu để mặc bóng trăng vào.
Năm chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.”
(Nguyễn Khuyến, Thu Vịnh)

Theo đúng quy luật về hình thức của thơ Ðường luật là việc hết sức khó khăn, phải mất nhiều công phu rèn luyện. Nếu không quen xử dụng, không đạt được kỹ thuật cao, bài thơ sẽ có vẽ bị nắn nót từng chữ cho đúng khuôn phép, nhưng sẽ không có hồn, tứ thơ sẽ có tính cách gò ép và trong trường hợp này tác giả sẽ bị coi như là một thợ thơ hơn là một nhà thơ. Khởi, Thừa, Chuyển, Hợp phải thật khéo, ý thơ phong phú, lời thơ trau chuốt, hình ảnh thi ca đẹp đẽ thì bài thơ mới thật hay. Thơ Ðường hay nhất là thơ thời Thịnh Ðường, cũng như văn giá trị là văn thời Tiền Hán. Cho nên một nhà vua Việt Nam đã khen văn Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát là đã làm lu mờ văn thời Tiền Hán, còn thơ mà đạt được mức độ hay của Tuy Lý Vương và Tùng Thiện Vương thì thơ hay thời Thịnh Ðường cũng chẳng sánh bằng (“Văn như Siêu Quát vô tiền Hán, Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Ðường”). Thật sự thì vua Tự Ðức đã làm công việc “mèo khen mèo dài đuôi thôi” chứ làm gì có chuyện “thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Ðường”.

Trên lý thuyết thì như vậy nhưng trên thực tế, nếu theo thật đúng quy luật, bài thơ Ðường luật ít khi đạt được mức độ tuyệt vời về phương diện nghệ thuật. Bài thơ thật đúng theo quy luật ấn định là bài thơ để cho các sĩ tử thi đậu trong các kỳ thi hơn là những bài thơ hay. Thơ hay, thơ có thần là bài thơ trong đó, ý và lời phải đạt được giá trị thẩm mỹ đặc biệt của thi ca. Ý trong thơ hay không phải là lối suy tư trong đời sống trí thức, không phải là lý luận (reasoning) suông, mà là ý tưởng khéo léo diễn tả dưới những hình ảnh thi ca đẹp đẽ. Nhà thơ không làm công việc của một triết gia, không diễn tả tư tưởng bằng suy tư, mà diễn tả tư tưởng bằng hình ảnh. “Le poète pense par images” như một nhà thơ Pháp đã nói. Tư tưởng thời gian trôi mau, trôi mãi một chiều, không dừng lại, không sửa đổi được lịch sử (irreversible), được Lý Bạch diễn tả bằng hình ảnh « Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi.». Tư tưởng cho rằng cuộc đời của con người mong manh bấp bênh, ngắn ngủi, vô nghĩa so với vũ trụ mênh mông, vô biên, mịt mù, được Nguyễn Du diễn tả bằng hình ảnh : « . . .cửa bể chiều hôm, thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa. » Bài thơ hay như hàm chứa một bức tranh trong đó, cũng như những bức tranh đẹp thường chứa đựng một bài thơ hay bên trong. Hãy xem bốn câu sau đây trong bài Tuyệt Cú của Ðỗ Phủ :

« Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu,
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên.
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết,
Môn bạc Ðông Ngô vạn lý thuyền. »

(Có hai con chim hoàng ly hót líu lo trong nhánh liễu bên nhà; Có 1 hàng cò trắng bay vút lên trên nền trời xanh ; Nhìn qua cửa sổ thấy ngọn núi Tây Lĩnh – hay tưởng chừng như của sổ nhà mình ngậm lấy ngọn núi Tây Lĩnh ở xa xa - mà trên đầu núi tuyết trắng phủ dày muôn thuở; Nhìn ra trước cửa cái thấy thuyền Ðông Ngô đậu bến dài dài . . .)
Trần Trọng Kim dịch bài thơ này như sau trong quyển Ðường Thi của ông :

« Cành thúy liễu hoàng oanh hót gió,
Một đàn cò bay trổ lên không
Mé tây núi tuyết dòm song
Thuyền Ngô muôn dặm cửa đông đậu đầy »

Màu sắc hòa dịu từ màu vàng của hoàng ly trên nền xanh green của nhành dương liễu, đến màu trắng lắm tắm của đàn cò trên nền xanh blue của da trời. Hình ảnh linh đông từ những con chim nhỏ tíu tít hót bên nhà đến đàn cò lầm lũi bay vút tận trời cao. Tư tưởng đối chiếu cảnh rộn rịp của chợ đời ngắn ngủi (thuyền Ðông Ngô) trước nhà với cái yên lặng vĩnh cửu trường tồn của vũ trụ cao vời (Tây Lĩnh thiên thu tuyết) ở mãi tận đàng xa. Ðúng là bài thơ tuyệt cú. Bài thơ chỉ có 4 câu và chỉ có 2 vần. Hãy nghĩ như mình ngắt lấy 4 câu giữa (Thực và Luận) của 1 bài thất ngôn bát cú vậy thì mình sẽ có bức tranh đầy ý nghĩa này.

Hồi xưa có người khen bài thơ và bức tranh của Vương Duy là : « Quan Vương Duy chi thi, thi trung hữu họa ; quan Vương Duy chi họa, họa trung hữu thi » (Xem bài thơ của Vương Duy thấy có bức họa bên trong, xem bức tranh của Vương Duy, thấy có bài thơ trong đó). Bài « Thu Ðiếu » của Nguyễn Khuyến đúng là một bức tranh thật đẹp :

« Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẻ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”

Bài thơ hay thường có không những một bức tranh mà còn có cả một bản nhạc. Lời lẽ êm dịu, âm diệu du dương thường đi theo một bài thơ có cảnh trí buồn thương man mác. Những lời mở đầu của những bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan chẳng hạn là những câu nhạc thật êm đềm :

« Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống đồn »
(Buổi Chiều Lữ Thứ)
« Bước tới Ðèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa. »
(Ðèo Ngang)
« Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ. »
(Tức Cảnh Chiều Thu)

Những câu mở đầu của Nguyễn Khuyến trong những bài Thu cũng vậy :

« Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.”
(Thu Ðiếu)
”Trời thu xanh ngất mấy từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.”
(Thu Vịnh)

Bài thơ Ðường luật hay cũng không nhất thiết phải được bố cục theo đúng bốn đoạn Khởi, Thừa, Chuyển, Hợp, mà thường nhất là phân làm hai giải, mỗi giải 4 câu, gồm tiền giải tức 4 câu đầu và hạ giải với 4 câu sau. Phân như vậy ta sẽ thấy ý trong thơ liên tục trong mỗi giải, và theo từng hứng khởi của mỗi giải. Cảnh và tình là những hứng khởi thường có đối với thi nhân. Cảnh có thể được nói đến trong tiền giải rồi để cho tình kết thúc trong hậu giải. Thí dự:

Ở phần tiền giải :

“Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa trường giang phẳng lặng tờ

Ở phần hậu giải:

Bầu giốc giang sơn say chắp rượu
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.”
(Bà huyện Thanh Quan, Tức Cảnh Chiều Thu)

Hứng khởi là yếu tố rất quan trọng trong thơ. Nó là cái động lực làm cho bài thơ phát dậy và đi tới. Có hứng khởi thật sự là có sự bắt đầu của bài thơ và từ đó nhà thơ như bị một sức thúc giục đi tới, bị thôi thúc phải mở lời ra cho thành thơ. Frost viết: “It begins in delight, it inclines to the impulse, it assumes direction with the first line laid down, it runs a course of lucky events, and ends in a clarification of line. . .” (Bài thơ bắt đầu bằng hứng khởi, rồi chiều theo sự giục giả của động lực thúc đẩy, nhận lấy một hướng đi sau khi câu thơ đầu tiên được vạch ra, tuôn chảy theo dòng sự việc , kết thúc trong sự làm sáng tõ câu thơ . . .) Cảm xúc bởi hình ảnh của cảnh vật quen thuộc sau một cuộc tang thương bà huyện Thanh Quan bắt đầu bằng tư tưởng vấn nạn:

“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Ðến nay thắm thoắt mấy tinh sương . . .

rồi để cho cái hứng khởi lúc đầu thúc đẩy dòng tư tưởng phát triển theo hình ảnh đẹp đẽ nhưng đau buồn cùng với nhạc điệu man mác của lời thơ

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét