Thông
thường, do trí óc chưa phát triển đầy đủ, do trình độ nhận thức chưa
trưởng thành, trẻ em rất dễ bị lạc đường. Thế nhưng, thời gian gần đây,
có một người lớn (lớn cả về tuổi đời lẫn tuổi hoạt động chính trị) xuất
hiện bơ vơ trên cõi đường lạc. Người đó lại lạc đường đến hai lần. Câu
chuyện "lạc đường hai lần" diễn ra trên Tập san "Dân Chủ cho Việt Nam"
số tháng 03/99 và 04/99, xuất bản tại Ðức Quốc. Từ tập san vừa kể, người
đọc có dịp nhìn thấy một bài viết ký tên Bùi Tín. Bài này mang tựa đề :
"Ði đến
một đồng thuận rộng rãi của cộng đồng trong cuộc đấu tranh cho dân sinh và dân chủ ở quê nhà". Theo ông Bùi Tín, nhà cầm quyền CSVN hiện bị ba sức ép nhằm thúc đẩy cải cách dân sinh và dân chủ. Ba sức ép kia là :
a. Sức ép trong xã hội Việt Nam
b. Sức ép của giới đầu tư quốc tế cùng với các chánh phủ dân chủ
c. Sức ép của cộng đồng Việt Nam hải ngoại.
Vẫn
theo ông Bùi Tín : lực lượng lãnh đạo đảng Cộng sản có vẻ rất lo ngại
về sức ép và còn đánh giá thấp, coi thường sức ép của cộng đồng Việt Nam
hải ngoại. Sau khi xếp loại tệ hại đối với sức ép của cộng đồng Việt
Nam hải ngoại, ông Bùi Tín đặt câu hỏi : "Làm thế nào thúc đẩy mạnh cuộc đấu tranh của cộng đồng người Việt nhằm góp phần sớm chấm dứt chế độ độc đoán ở trong nước ?" Ðể trả lời câu hỏi "làm thế nào", ông Bùi Tín đã viết ra một số nhận định về cộng đồng Việt Nam
hải ngoại với ước mong cộng đồng này sớm tự "cải tạo".
Sau đây là nguyên văn các nhận định đó, kèm theo mỗi nhận định, bài
viết này sẽ trình bày một vài phân tích và bình luận cần thiết.
NHẬN ÐỊNH MỘT :
Ðề cập đến tính chất cuộc đấu tranh chống cộng của người Việt hải ngoại, ông Bùi Tín viết :
"Xu
thế dùng bạo lực, chủ quan, theo cảm tính, cực đoan... chưa được khắc
phục hoàn toàn. Các khẩu hiệu : giải phóng đất nước, quang phục quê
hương, đòi chuyển giao chính quyền... không có nội dung thiết thực... Xu thế chống cộng cực đoan còn nặng nề, phổ biến, theo kiểu cách chống cộng đến cùng một cách sơ đẳng và mù quáng".
TRẢ LỜI ÔNG BÙI TÍN :
Kiến
thức nhập môn của khoa tâm lý đã chỉ ra rằng : sức nén càng mạnh thì
sức nổ càng lớn. Nhà cầm quyền CSVN thi hành chính sách cai trị cực kỳ
hà khắc với hậu ý trấn át mọi phản đối từ phía quần chúng trước vô số
hành động bóc lột và/hoặc bịp bợp của CSVN,
chính sách hà khắc đó kéo dài hơn nửa thế kỷ. Ngày nay, nhờ vào môi
trường tự do ở hải ngoại, cộng đồng Việt Nam chống cộng cực đoan để mạnh
mẽ đòi hỏi tự do dân chủ cho đồng bào quốc nội. Ðó là lẽ phải tự nhiên. Ðó là nỗ lực làm cho máu ngưng chảy để cho ruột khỏi mềm.
Mặt khác, dòng lịch sử gồm vô số vòng quay. Mỗi vòng quay bao gồm hai thế lực xung khắc và một giải pháp dung hòa : chính
đề và phản đề đấu tranh lẫn nhau. Cuối cùng, lịch sử tiến tới giải pháp
tổng hợp đề. Nhìn vào hiện trạng lịch sử Việt Nam, chúng ta thấy rằng :
CSVN độc tài và bóc lột là một chính đề cực kỳ ngoan cố. Quần chúng
Việt Nam nổi lên chống cộng ngày càng đông đảo là một phản đề tất yếu.
Chính đề càng hà khắc một cách lì lợm, Phản đề càng cực đoan một cách
kiên trì. Nói rõ hơn,
Phản đề cực đoan và mạnh mẽ bao nhiêu thì lịch sử dễ tiến tới Tổng hợp
đề bấy nhiêu. Lịch sử của loài người đã dứt khoát khẳng định : không hề
có một nhà độc tài bóc lột nào đã tự nguyện trao trả quyền dân chủ lại
cho nhân dân. Sự trao trả vừa nói chỉ có thể xảy ra dưới áp lực nặng nề
của bạo lực quần chúng. Vì vậy chúng ta nên chân thành tri ân những
người chống Cộng cực đoan với các lý lẽ kể sau :
Mặc
dầu thừa biết rằng chống Cộng cực đoan sẽ bị một vài dư luận lên án là
không khôn ngoan, những người chống Cộng cực đoan vẫn can đảm chấp nhận
lời lẽ lên án vừa nói để đổi lấy kết quả duy nhất : lịch sử phải được khai thông.
Lập
trường chống Cộng cực đoan là sự giải thích dũng cảm và thông minh nhất
đối với nội dung vận hành của lịch sử : Phản đề chống Cộng cực đoan mới
đủ cân lượng để phá vỡ Chính đề độc tài bóc lột kiểu CSVN. Xã hội Việt
Nam trong tương lai chắc chắn không là xã hội Việt Nam Cộng Hòa ngày
xưa, lại càng không phải là xã hội Cộng sản Việt Nam ngày nay. Việt Nam
tương lai sẽ là một xã hội dân tộc, dân chủ, nhân quyền. Ðó là chân ý
nghĩa của Tổng hợp đề.
Ði
kèm với ý kiến đả kích thái độ chống Cộng cực đoan của người Việt hải
ngoại, ông Bùi Tín còn cho rằng : "đòi CSVN chuyển giao chính quyền" là
"không có nội dung thiết thực".
Thế
nào là thiết thực ? Thiết thực đòi hỏi chúng ta không thể bưng mắt, bịt
tai trước một nhà cầm quyền cướp chính quyền. Một nhà cầm quyền không
do dân bầu. Một nhà cầm quyền bất hợp pháp về mặt pháp chế dân chủ. Một
nhà cầm quyền đối tượng của hình luật về các tội ác : thảm sát tập thể,
tham ô, buôn lậu. Nhóm chữ "chuyển giao chính quyền" mang ý nghĩa rõ
ràng và dứt khoát rằng : nhà cầm quyền CSVN, loại cầm quyền ngụy danh,
hãy trao trả cho người dân quyền sử dụng lá phiếu để tuyển chọn giới
lãnh đạo quốc gia. CSVN hãy chấm dứt tức thời và vô điều kiện mọi hình
thức bầu cử gian dối, tinh vi hay thô
thiển.
NHẬN ÐỊNH HAI:
Bình
luận về xu thế chính trị của người Việt ở trong và ngoài nước, ông Bùi
Tín cho rằng : có "sự khác biệt nguy hiểm giữa xu thế chống cộng tồn tại
trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài với xu thế đấu tranh đòi dân
sinh dân chủ, chống độc đoán của đại khối nhân dân ở trong nước". Vẫn
theo ông Bùi Tín, "sự khác biệt nguy hiểm" vừa nêu đã khiến cho người
Việt hải ngoại "rất khó nói chung một ngôn ngữ, rất khó đồng cảm với
nhân dân ở trong nước".
Nhằm
đi đến đồng cảm, ông Bùi Tín kêu gọi : "Chỉ có cách giải quyết duy nhất
là những tổ chức và các vị lãnh đạo nói trên (cộng đồng Việt Nam hải
ngoại) phải từ bỏ cái thế giới riêng biệt, đặc thù của mình để liên hệ
và hòa nhập với đại khối dân tộc và nhân dân để khỏi bị mất gốc, để tìm
ra được nguồn cảm hứng cho mục tiêu và biện lý đấu tranh có hiệu quả.
Không làm được điều ấy, khối người Việt lưu vong sẽ dần dần vong bản
thêm và lưu vong mãi mãi".
TRẢ LỜI ÔNG BÙI TÍN:
Dưới
chế độ dân chủ, điều được gọi là "dân ý" phải là kết quả được lấy ra từ
lá phiếu của người dân hoặc từ những cuộc trực tiếp phỏng vấn người dân
đủ mọi thành phần chính trị, xã hội. Những cuộc phỏng vấn đó cần diễn
ra một cách thích nghi, kịp thời, trên căn bản hoàn toàn khách quan. Mặc
dầu không hề có các hình thức ghi nhận dân ý như vừa nói, ông Bùi Tín
vẫn nhắm mắt khẳng định "xu thế đấu tranh đòi hỏi dân sinh, dân chủ,
chống độc đoán" là xu thế của "đại khối nhân dân trong nước". Luận cứ
của ông Bùi Tín hiển
nhiên là mơ hồ và vô căn cứ. Luận cứ đó đi kèm với sự việc ông Bùi Tín
đả kích đòi hỏi CSVN hãy "chuyển giao chính quyền" đã cho chúng ta thấy
ông Bùi Tín đang kín đáo kêu gọi toàn dân Việt Nam hãy hợp tác với nhà cầm quyền CSVN để xây dựng dân chủ và nâng cao dân sinh.
Ðối diện với hiện tình Việt Nam, người dân muốn gì ? Phải chăng người
dân muốn hợp tác với nhà cầm quyền CSVN ? Phải chăng người dân muốn CSVN
hãy ra đi, hãy để người dân kiến tạo một chế độ mới hoàn toàn tự do dân
chủ ? Câu trả lời nghiêm chỉnh chỉ có thể tìm thấy trong lẽ phải và
trong kinh nghiệm của lịch sử.
Tiếng nói của lẽ phải
: điều kiện tiên quyết để nguòi dân có thể hợp tác với nhà cầm quyền là
nhà cầm quyền đó phải do dân bầu theo đúng thủ tục do luật pháp dân chủ
quy định. Nhà cầm quyền CSVN là loại nhà cầm quyền "cướp chính quyền".
Cướp lần thứ nhất vào tháng 8 năm 1945. Cướp lần thứ hai ngày 30 tháng 4
năm 1975. Song hành với trọng tội cướp chính quyền, CSVN còn là can
phạm của rất nhiều tội ác khác : sát hại người yêu nước để bảo vệ quyền
hành, cưỡng đoạt tài sản của người dân dưới các chiêu bài : đấu tố địa
chủ, đánh tư sản, giết người tập thể trong biến cố Mậu Thân, trong hàng
trăm trại tù cải tạo sau 1975. Kinh tài cho đảng và cho cá nhân đảng
viên qua những hoạt động buôn lậu, tham nhũng. Khối tội ác trùng điệp
của CSVN đã trở thành bức tường đá ngăn cách giữa người dân và nhà cầm
quyền Cộng sản, lương tri làm người và ái quốc làm dân là yếu tố tâm lý
và đạo đức tạo ra thái độ bất hợp tác của người dân đối với CSVN.
Nhận
định cho rằng "xu thế của đại khối dân tộc" là xu thế cộng tác với CSVN
để xây dựng dân chủ dân sinh hiển nhiên là nhận định bóp méo sự thực
với ẩn ý tìm đường thoát hiểm cho CSVN.
Tiếng
nói của lịch sử : có thể khẳng định không một chút dè dặt rằng lịch sử
chính trị của thế giới là lịch sử của nỗ lực phá vỡ gông cùm bị trị,
lịch sử của tự do dân chủ triệt hạ độc tài áp bức, lịch sử đã ghi nhận :
mọi chế độ độc tài chỉ tồn tại nhờ vào thủ đoạn bịp bợm. Chừng
nào bộ mặt bịp bợm bị lột trần, chừng đó chế độ độc tài phải gục chết
dưới sức phẫn nộ của người dân. Lịch sử cũng đã ghi nhận : chưa hề có một chế độ độc
tài nào được hồi sinh do thái độ hợp tác và xây dựng của quần chúng.
Không sớm thì muộn, các loại chế độ độc tài đều gục chết qua cửa ngõ tự
giải trừ hoặc bị quần chúng lật đổ. Ðức Quốc Xã, Liên Bang Xô Viết, các
quốc gia Cộng sản Ðông Âu, Phi Luật Tân với Marcos, Nam Dương với
Suharto và vô số sự kiện khác trên lịch sử đều mạnh mẽ và dứt khoát
khẳng định : chế độ độc tài, tham ô và nghèo nàn học vấn kiểu CSVN chỉ
có thể bị giải trừ, chứ không thể được quần chúng hợp tác để tìm đường
hồi sinh.
Như
vậy, tiếng nói của lẽ phải cũng như tiếng nói của lịch sử đều triệt để
phản bác nhận định cho rằng "xu thế của đại khối dân tộc" là xu thế cộng
tác với CSVN. Nhận định này hiển nhiên chỉ là một sản phẩm tưởng tượng,
nếu không muốn nói là một gian mưu về tư tưởng của ông Bùi Tín.
NHẬN ÐỊNH BA:
Căn
cứ vào gian mưu vừa nói, ông Bùi Tín kêu gọi người Việt hải ngoại hãy
tìm cách "nói chung một ngôn ngữ", hãy tiến đến "đồng cảm với nhân dân ở
trong nước". Nếu không, vẫn theo ông Bùi Tín, nguòi Việt hải ngoại sẽ "vong bản thêm". Xử
dụng nhóm chữ "vong bản thêm", ông Bùi Tín có chủ tâm diễn ý rằng người
Việt hải ngoại vốn đã vong bản, nay do đòi hỏi CSVN phải "chuyển giao
chính quyền" cho nguòi dân đã trở nên "vong bản thêm".
TRẢ LỜI ÔNG BÙI TÍN :
Thế nào là vong bản ?
Bản
là gốc, là rễ, là cội nguồn, là yếu tố trọng yếu quyết định tình trạng
thịnh suy của một dòng sống. Trên bình diện tồn vong của quốc gia, bản
không thể là gì khác hơn là đời sống của Người Dân. Người Dân là chân
chính tác giả của phong tục, tập quán, của văn hóa nghệ thuật, của văn
minh, văn hóa, văn hiến. Người Dân là chủ, là thợ, là người sản xuất, là
giới tiêu thụ, là nền tảng tối định, là đối tượng tối cao của guồng máy
kinh tế.
VONG BẢN là thái độ không biết đến và/hoặc phản nghịch lại với quyền sống của Người Dân, quyền làm người của Người Dân.
Vào
những ngày chờ đợi tử thần từ trên giường bệnh, Hồ chí Minh đã lạc quan
với sự tin tưởng là chẳng bao lâu nữa ông Hồ sẽ được hội ngộ với "Bác
Karl Marx và Bác Lenine". Trọn đời ông Hồ, kể cả lúc hấp hối, ông này
không hề, dầu chỉ một lần tỏ ý tôn kính tổ tiên. Không còn nghi ngờ gì
nữa Hồ chí Minh là kẻ vong bản triệt để nhất trong thế giới của những kẻ
vong bản.
Quyền
làm người đòi hỏi nhân tính phải được tôn trọng. Một trong những nhân
tính hàng đầu là tính nhất nguyên. Tính này quy định rằng mọi nhận thức
của con người đều được xây dựng theo sự thúc bách của ba dấu hỏi về
nguyên nhân, về thực trạng và về hậu quả. Ba dấu hỏi vừa nêu đã mang lại
cho đời người ba băn khoăn lớn :
1. Trước khi ra đời con người ở đâu ?
2. Thế nào là hạnh phúc của đời người ?
3. Từ trần, con người đi về đâu ?
Tôn giáo là con đường duy nhất cao cả, duy nhất khả kính, giúp con người giải trừ băn
khoăn số 1 và số 3. Vì vậy, tín ngưỡng vừa là nhu cầu khẩn thiết trong
đời sống tinh thần của con người, vừa là thành tố trọng yếu của văn hóa.
Văn hóa của toàn bộ nhân loại cũng như Văn hóa của mỗi dân tộc. Do tham
vọng thống trị con người cả về mặt thể chất lẫn tinh thần, CSVN đã
không ngừng nghỉ đánh phá quyền tự do tín ngưỡng của người
dân. Cộng sản lên án công giáo là mê tín
dị đoan, là á phiện của nhân dân. Cộng sản thành lập hàng loạt "Giáo
hội quốc doanh" nhằm "gài chất nổ" trên xương sống của mỗi tôn giáo.
Chống tôn giáo tức là chống nhân tính, tức là chống văn hóa, tức là
chống lại quyền làm người của người dân. Bấy nhiêu cái "tức là" vừa nêu đã tạo thành dấu ấn đóng lên trán của mỗi người Cộng sản Việt Nam hai chữ "Vong Bản".
Bây
giờ chúng ta hãy khảo sát truyền thống sinh hoạt chính trị của dân tộc
Việt Nam để từ đó xác định xem CSVN có vong bản hay không trên lãnh vực
này, Như chúng ta đã biết, truyền thống chính trị của dân tộc Việt Nam
là truyền thống dân chủ. Truyền thống đó đã thể hiện rất rõ rệt trong
kho tàng văn chương bình dân Việt Nam. Dưới chế độ quân chủ, vua là vị
lãnh đạo tối cao, tuyệt đối đáng tôn kính. Thế nhưng, người dân vẫn mạnh
mẽ và công khai khẳng định :
"Phép vua thua lệ làng"
"Lệ
làng" chính là ý dân. Do đó thái độ "cửa quyền" của quan chức thuộc các
chế độ thống trị không hề khuất phục được người dân :
"Quan có cần nhưng dân chưa vội
Quan có vội quan lội quan sang".
Chẳng
những người dân đề cao ý dân trong mỗi làng, mà người dân còn đề cao
mối quan hệ bình đẳng và hỗ tương giữa làng này với làng kia :
"Lệnh làng nào làng nấy đánh
Thánh làng nào làng nấy thờ".
Mỗi
làng có lệ riêng, có thánh riêng. Muôn làng như một, quấn quyện lấy
nhau trong tương thân tương ái, tạo thành non nước Việt Nam. Bao nhiêu
làng, bao nhiêu lệnh, bao nhiêu thánh là bấy nhiêu NGUYÊN. Ðó là chân ý
nghĩa đa nguyên của dân chủ Việt Nam. Ða nguyên trong khuôn khổ "một
người vì mọi người, và mọi người vì một người". Dưới ánh sáng của văn
minh nhân bản ngày nay, quyền tự do bầu cử và ứng cử của người dân là
chìa khóa đầu tiên giúp con người tiến vào lâu đài dân chủ đa nguyên.
Nhắc đến quyền tự do ứng cử và bầu cử là một gợi nhớ
đến những cuộc bầu cử bịp bợm của CSVN. Hơn nửa thế kỷ qua, CSVN đã nắm
giữ chiếc ghế lãnh đạo tại Việt Nam trên căn bản "cướp chính quyền". Từ
đó CSVN triệt để chủ trương độc quyền cai trị. Họ triệt hạ tất cả những
tổ chức hoặc chính đảng không là vệ tinh của đảng CSVN. Họ thủ tiêu mọi
cá nhân, đoàn thể đối lập. Ho che mắt dư luận bằng một quốc hội bù nhìn
thô thiển. Họ nỗ lực bảo vệ địa vị cầm quyền của họ chỉ để thỏa mãn
tham vọng độc tài. Ðộc tài lũng đoạn kinh tế quốc gia qua hệ thống xí
nghiệp quốc doanh hiểu biết lơ mơ về kinh tế học. Ðộc tài bóc lột người
dân qua hàng ngũ quan chức tư bản đỏ học vấn rất hạn chế, lòng tham vô
độ.
Tội
ác chống phá tôn giáo, chống phá văn hóa đi kèm với tội ác độc tài và
tham ô đã hiển nhiên biến CSVN thành một tập đoàn chẳng những vong bản
mà còn phản "bản", hại "bản".
"Bản" ở đây chính là truyền thống tự do tín ngưỡng và dân chủ đa nguyên của dân tộc Việt Nam.
Trở
lại với cộng đồng Việt Nam hải ngoại, chúng ta thử tìm hiểu xem cộng
đồng này có vong bản đúng như nhận định của ông Bùi Tín hay không ?
Ngón tay có ngón dài ngón ngắn. Một cộng đồng hằng triệu người, hẳn
nhiên phải có người thế này kẻ thế kia. Tuy nhiên, trong niềm hoài cảm
hướng về quê hương, nhìn một cách chung nhất, sinh hoạt của cộng đồng
Việt Nam hải ngoại có những đặc điểm kể sau :
1. Sinh Hoạt Văn Hóa : Ở
đâu có đông đảo người Việt, ở đó sinh hoạt văn hóa Việt trở nên rất sôi
nổi. Tại Nam California, hàng trăm tờ báo Việt ngữ đủ loại phát hành
đều đặn, vô số chương trình phát thanh Việt ngữ làm việc 24/24. Trên sáu
mươi (60) trung tâm dạy tiếng Việt cho trẻ em Việt Nam cũng như ngoại
quốc. Do sự vận động tích cực và hữu hiệu của người Việt, tiếng Việt đã
chính thức trở thành một sinh ngữ trong chương trình ngoại ngữ của hệ
thống giáo dục
Hoa Kỳ.
2. Sinh Hoạt Tâm Linh : Chùa
Việt Nam, Nhà thờ Việt Nam vươn vai đứng dậy tại nhiều địa phương khác
nhau. Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Cao Ðài, Phật Giáo Hòa Hảo,
mỗi tôn giáo đều có cơ sở thờ tự rộng lớn, trang nghiêm. Tất cả đều mang
hình thái cấu trúc đặc biệt Việt Nam. Thêm vào đó là đền thờ Quốc Tổ
Hùng Vương, đài kỷ niệm Hai Bà Trưng, đài tôn vinh anh hùng liệt sĩ Việt
Nam là các địa điểm người Việt tụ họp hàng năm để tạ ơn Quốc Tổ, tạ ơn Ông Bà Tổ Tiên, tạ ơn muôn vạn
sinh linh đã vị quốc vong thân.
Nói đến sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt Nam, chúng ta cần ghi nhận hai điều :
a. Hầu hết người Việt Nam đều hữu thần,
đều là tín đồ của một tôn giáo nào đó. Quần chúng Việt Nam mặc nhiên
được đoàn ngũ hóa bởi tôn giáo. Tiếng nói của các giáo hội đích thực
phản ánh ý nguyện của toàn dân.
b. Các giáo hội ở trong và ngoài nước
từ nhiều năm qua đã có những hoạt động phối hợp rất nhịp nhàng, không
hề có một tôn giáo nào gặp khó khăn về dị biệt tư tưởng giữa giáo hội
trong nước và giáo hội hải ngoại. Trong nội bộ của mỗi giáo hội cũng
như trong mối quan hệ giữa các giáo hội với nhau đều có sự thống nhất ý
chí rằng : nhà cầm quyền CSVN phải chuyển giao chính quyền về cho quần
chúng, phải trao trả tức thời và vô điều kiện quyền tự do dân chủ cho
nhân dân Việt Nam.
Hai điều ghi nhận kể trên đã mạnh mẽ khẳng định rằng : ý
kiến than phiền người Việt hải ngoại đã không "nói chung một ngôn ngữ"
với đồng bào ở trong nước là một ý kiến cố tình xuyên tạc sự thực nhằm
biện hộ cho chế độ CSVN.
3. Sinh Hoạt Kinh Tế Tài Chánh
: Không có sự chối cãi rằng hàng năm người Việt hải ngoại trên toàn thế
giới gửi về Việt Nam một khối lượng ngoại tệ khổng lồ. Khối lượng ngoại
tệ đó quan trọng đến độ CSVN phải thay đổi thái độ đối với người Việt
hải ngoại. Trong khoảng 10 năm (từ 1975 đến 1985) CSVN gọi người Việt
hải ngoại là "những kẻ phản quốc". Ngày nay họ ngọt ngào gọi chúng ta là
"khúc ruột ở xa". Tạm gác qua một bên những tham ô nhũng lạm của CSVN
chung quanh khối ngoại tệ đó, bài viết này chỉ muốn nhắc
đến mối liên hệ mật thiết về tài chánh của người Việt hải ngoại với quê
hương Việt Nam như một dấu hiệu rõ nét nhất về niềm thương cảm sâu đậm
của người Việt ly hương dành cho thân nhân, bè bạn và đồng bào đang sống
nghèo đói tại quốc nội. Nghèo đói cơm áo lẫn tự do dân chủ.
4. Sinh Hoạt Chính Trị
: Mỗi người có một ý kiến riêng. Mỗi ý kiến là một NGUYÊN. Muôn vạn
người, muôn vạn ý kiến, muôn vạn nguyên, gọi chung là đa nguyên. Trong
đa nguyên có thái quá, có bất cập, có trung. Ða nguyên có khuynh hướng
tìm về ổn định, tìm về trung đạo. Ðó là ý nghĩa của luật tắc : đa nguyên
hội tụ trên nhất nguyên. Cộng đồng Việt Nam hải ngoại có rất nhiều đoàn
thể, rất nhiều chánh kiến, rất đa nguyên. Tuy nhiên, đa nguyên trong
sinh hoạt chính trị của người Việt hải ngoại bao giờ cũng hàm chứa một
nền tảng
nhất nguyên : CSVN phải ra đi. Tự do dân chủ phải đến với Việt Nam.
Ðiều này đã giải thích tại sao tháng 2 năm 1999 có trên dưới bốn mươi
ngàn (40,000) người Việt hải ngoại đã biểu tình tại Little Saigon. Cuộc
biểu tình đó nhằm gay gắt chống đối chế độ CSVN ẩn nấp đằng sau lá cờ
màu máu, máu của vô số nạn nhân Cộng sản, ẩn nấp đằng sau tấm hình của
Hồ chí Minh, loại hình bị đồng bào quốc nội phẫn nộ gọi là hình "lộng
kiếng" (nói lái). Mặt khác, vẫn theo luật tắc : đa nguyên nhưng nhất
nguyên, càng ngày số lượng người Việt hải ngoại (nhất là người Việt ở
Hoa Kỳ) tham gia vào những cuộc bầu cử tại quốc gia mà họ mang quốc
tịch. Hành động tham gia bầu cử vừa nói có chủ ý hối thúc chính phủ thuộc mọi quốc gia trong cộng
đồng quốc tế mạnh mẽ gây sức ép để buộc CSVN phải trao trả tự do dân chủ cho quần chúng Việt Nam.
Nói tóm lại, mọi sinh hoạt của người Việt Nam hải ngoại : từ
văn hóa, tâm linh, kinh tế, chính trị, bao giờ cũng hướng về đồng bào
thân yêu ở quê nhà, bao giờ cũng nỗ lực làm cho đời sống của xã hội Việt
Nam tiến tới ấm no, dân chủ. Sự thể này khẳng quyết rằng người Việt hải
ngoại không hề vong bản, và rằng : CSVN mới đích thực là một tập đoàn
vong bản. Ðối với CSVN "bản" không là quyền sống của người dân.
"Bản" chính là Marx Lenine, là bóng ma Hồ chí Minh, là tham vọng độc tài
áp bức, là mưu thần chước quỷ trong thế giới tham ô,
buôn lậu.
NHẬN ÐỊNH BỐN :
Mặc
dầu quyết liệt lên án người Việt hải ngoại vong bản và "vong bản thêm",
ông Bùi Tín lại chê trách người Việt hải ngoại đã đau buồn trước cảnh
mất nước của một nước không mất. Tạm gác qua một bên mâu thuẫn giữa vong
bản và nỗi buồn mất nuóc, chúng ta hãy theo dõi ông Bùi Tín
viết về tình trạng mất, còn của nước : "Do một mực quay đầu lại quá khứ
mà cho đến nay một số người tự nhận là "quốc gia kiên định" vẫn không
chịu công nhận sự thật hiển nhiên là : nước không mất đi đâu cả, chỉ có
đã mất đứt một chế độ
chính trị, đã mất hẳn một hệ thống chính quyền và một quân đội từng cai
trị Miền Nam".
TRẢ LỜI ÔNG BÙI TÍN :
Một
nước bị mất không có nghĩa là lãnh thổ của nước đó bị chìm xuống biển,
quần chúng cùng với chính quyền của nước đó bị từ trần tập thể. Mất nước
có nghĩa là vong quốc. Tìm hiểu ý nghĩa của vong quốc, chúng ta nên
khởi hành từ ý niệm vong thân.
Một
quân nhân thay vì dũng cảm chiến đấu để bảo vệ đất nước, quân nhân này
lại đầu hàng địch quân, khai báo cho địch quân biết những bí mật quốc
phòng của quốc gia. Ðó là trường hợp vong thân của quân nhân.
Một vị tu sĩ sẽ vong thân chừng nào vị tu sĩ đó không còn sống đúng với phong cách của bậc tu hành.
Vong
thân là tình huống sống của một người hoặc do tự ý, hoặc do hoàn cảnh
đưa đẩy đã không còn sống đúng với "mệnh" của chính mình. Mệnh của người
dân đòi hỏi người dân phải thi hành nghĩa vụ làm dân, cụ thể là nghĩa
vụ đóng thuế và nghĩa vụ quân dịch. Ðồng thời mệnh của người dân cũng
đòi hỏi người dân phải có quyền làm dân, cụ thể và cao cấp nhất là quyền
được xử dụng lá phiếu để chỉ định những người lãnh đạo quốc gia. Những
người này có nhiệm vụ thay mặt dân điều hành việc nước, điều hành số
tiền thuế cùng vô
số quyền lợi tài chánh khác do sức dân kết hợp để tạo thành. Ở vào một
hoàn cảnh lịch sử nào đó, người dân chỉ có nghĩa vụ làm dân chứ không có
quyền làm dân. Chúng ta bảo : đời sống của người dân đã bị rơi vào
kiếp VONG DÂN. Quốc gia bị rơi vào trạng huống vong quốc, ngôn ngữ bình
dân gọi là mất nước.
Dưới chế độ Bắc thuộc,
người dân chỉ có nghĩa vụ gồng gánh sưu cao thuế nặng, tuyệt nhiên
không có quyền dự phần quyết định vận mệnh tương lai của Việt Nam. Người
dân trở thành vong dân. Chúng ta mất nước.
Dưới chế độ Tây thuộc,
người dân chỉ có nghĩa vụ làm nạn nhân của tham vọng thực dân. Tuyệt
đối người dân không được quyền bầu cử ban lãnh đạo quốc gia. Như vậy là
vong dân sống trong thảm cảnh mất nước.
Dưới chế độ CSVN, người
dân tiếp tục sống lầm than trong "điều kiện chỉ có nghĩa vụ, không có
quyền". Người dân tiếp tục sống vong dân. Ðiều cần nhấn mạnh là so với
Bắc-thuộc và Tây- thuộc, chế độ Cộng-thuộc độc ác và nham hiểm hơn ngàn
lần. Tuy nhiên, đằng sau vô số thủ đoạn độc ác và nham hiểm, chúng ta
vẫn nhìn ra bộ mặt thật của CSVN : sử dụng những thủ tục bầu cử bịp bợm
để dứt khoát cướp đoạt quyền tự do bầu cử của người dân. Những suy nghĩ
và hành động của người dân là nội dung sinh hoạt của quốc
gia. Vì vậy quốc gia bao giờ cũng đi với dân. Và vì vậy, vong dân và vong quốc bao giờ cũng là hai mặt của một bàn tay. Ðó là lý do rất triết lý và rất pháp lý khiến chúng ta đã hữu lý khi cho rằng : cộng sản cai trị Việt Nam tức là chúng ta mất nước.
Từ
vài năm qua, một cách hoặc ngấm ngầm hoặc công khai, ông Bùi Tín đã
cung cấp cho dư luận những tin tức rằng Bùi Tín là người hoạt động chính
trị toàn thời gian, Bùi Tín là người vô cùng am tường toàn bộ vận hành
chính trị của quốc gia cũng như quốc tế, và rằng Bùi Tín là người yêu
nước bằng tất cả tâm tính bình tĩnh và thiết tha. Kính thưa ông Bùi Tín,
cách đây vài thập niên, NƯỚC ÐÃ MẤT RỒI, ông có biết hay không ?
Nhìn
chung lại, cả bốn nhận định của ông Bùi Tín trong những phần trình bày ở
trên đều hoàn toàn sai lầm, hoàn toàn không phù hợp với quyền làm người
của Người Dân. Ông Bùi Tín đã căn cứ vào bốn sai lầm đó để kêu gọi
người Việt hải ngoại hãy hưởng ứng "xu thế đấu tranh đòi dân sinh, dân
chủ, chống độc đoán của đại khối nhân dân ở trong nước". Muốn hiểu rõ
lời kêu gọi của ông Bùi Tín, chúng ta hãy thâu lượm một số hậu ý đáng
quan tâm đã được ông Bùi Tín để lộ rải rác trong toàn thể bài viết của
ông :
Những điều ông Bùi Tín phản đối : "chống cộng đến cùng, giải phóng đất nước, quang phục quê hương, đòi chuyển giao chính quyền".
Những điều ông Bùi Tín ủng hộ :
"đấu tranh đòi dân chủ, dân sinh, chống độc đoán" một cách chung chung,
tuyệt đối không nhắc đến quyền tự do báo chí, đặc biệt là quyền tự do
ứng cử và bầu cử của người dân. Ông Bùi Tín cho rằng đảng cộng sản hiện
bị phân hóa ở hai đầu : "Một đầu là nhóm lãnh đạo độc đoán, tham quyền
và vụ lợi, một đầu là đảng viên có uy tín, có trí tuệ và lương tâm đã
thức tỉnh và dấn thân cho cuộc cách mạng mới". Dĩ nhiên là ông Bùi Tín
mong muốn chúng ta ủng hộ những "đảng viên có uy
tín".
Mang
những điều phản đối và ủng hộ kể trên cộng trừ lẫn với nhau, chúng ta
hiểu ngay rằng "xu thế đấu tranh đòi dân chủ dân sinh, chống độc đoán
của đại khối nhân dân ở trong nước", có nghĩa là :
Thứ nhất : xin
đừng đấu tranh đòi hỏi CSVN phải "chuyển giao chính quyền" cho nhân
dân, cho một chính phủ do dân thực sự bầu lên. Toàn dân hãy hợp tác với
đảng Cộng sản để giúp đảng loại bỏ "nhóm lãnh đạo độc đoán tham quyền và
vụ lợi". Từ đó đảng sẽ hồi sinh. Uy tín của đảng được tái tạo.
Thứ hai :
trong tương lai, Việt Nam sẽ tiếp tục được lãnh đạo bởi "đảng CSVN
quang vinh". Vẫn theo Bùi Tín, ban lãnh đạo của "đảng CSVN đổi mới" sẽ
là những "đảng viên có uy tín, có trí tuệ và lương tâm đã thức tỉnh và
dấn thân cho cuộc cách mạng mới".
Mưu
đồ của ông Bùi Tín ẩn nấp đàng sau tấm bình phong "xu thế của đại khối
nhân dân ở trong nước" đã đưa đẩy chúng ta nghĩ đến vấn đề trách nhiệm.
Giả sử những "đảng viên có uy tín, có trí tuệ và lương tâm đã thức tỉnh"
là có thực, những đảng viên này không thể chối bỏ được trách nhiệm của
họ về hàng núi tội ác do CSVN tạo ra trong hơn nửa thế kỷ qua. Nếu quả
thực nhóm đảng viên kia có "lương tâm đã thức tỉnh" thì họ phải can đảm
công khai nhìn nhận trách nhiệm. Thái độ nhìn nhận trách nhiệm chỉ có ý
nghĩa chừng nào nhóm đảng
viên "có uy tín" tự nguyện công bố một giải pháp tự xử. Quyết định tự
xử chân thành nhất, nhân bản nhất, tự trọng nhất chính là quyết định
tuyệt đối rút lui ra khỏi mọi hoạt động chính trị, đặc biệt là loại
chính trị tham dự vào guồng máy quyền lực quốc gia. Chỉ cần một chuyến
xe lửa gặp tai nạn, ông Tổng trưởng Giao thông lập tức từ chức. Ðó là
tinh thần trách nhiệm. Ðó là thái độ tự trọng. Lịch sử đảng CSVN đã có
đảng viên nào từ chức vì tinh thần trách nhiệm hay chưa ? Từ Hồ chí Minh
cho tới anh đảng viên sơ cấp, tất cả đều cúi đầu vì xấu hổ khi phải đối
mặt với câu hỏi vừa nêu. Vả lại trong đảng Cộng sản làm gì có đảng viên
có uy tín, có lòng yêu nước. Ðối với người Cộng sản, yêu nước phải là
yêu xã hội chủ nghĩa. Yêu nước chẳng qua chỉ là chiêu bài giúp CSVN che đậy một cách thô thiển bộ mặt độc tài và tham ô của họ.
Không còn nghi ngờ gì nữa, điều được ông Bùi Tín gọi là "xu thế của đại
khối nhân dân ở trong nước" hiển nhiên là một điều bịa đặt trắng trợn.
Ðiều bịa đặt kia có tác dụng dọn đường cho âm mưu thực hiện một cuộc đảo
chánh trong nội bộ đảng Cộng sản. Lê Khả Phiêu và tay chân sẽ bị hạ bệ.
Một phe cánh khác sẽ lên ngôi. Phe cánh này, nói theo kiểu Bùi Tín, sẽ
gồm những "đảng viên có uy tín, có trí tuệ và lương tâm đã thức tỉnh và
dấn thân cho một cuộc cách mạng mới". Khỏi cần
phải bình luận dông dài, người
dân đều quá hiểu và quá chán ngán miệng lưỡi của người Cộng sản. Phe
này lên, phe kia xuống. Cả hai phe đều là Cộng sản. Cả hai phe đều là
thủ phạm làm cho người dân phải vong dân, nước phải mất.
Khi
còn là một thanh niên, ông Bùi Tín đã gia nhập đảng CSVN, đã cùng đảng
Cộng sản vi phạm vô số tội ác đối với Tổ quốc, đối với đồng bào. Ðó là lần lạc đường thứ nhất của ông Bùi Tín. Khi
tuổi tác đã thực sự về chiều, ông Bùi Tín bị thất sủng, lợi dụng một
chuyến đi công tác cho CSVN, ông Bùi Tín trốn ở lại Pháp. Thay vì sống
theo "lương tâm đã thức tỉnh", thay vì thành tâm vận động tự do dân chủ
cho Việt Nam, ông Bùi Tín lại toan tính tiếp tục đi theo con đường Cộng
sản dưới bảng hiệu "đảng viên có uy
tín". Ðó là lần lạc đường thứ hai của ông Bùi Tín.
Hướng
đạo viên là người đưa đường chỉ lối cho khách băng rừng vượt núi. Trên
địa bàn chính trị, ông Bùi Tín đã tự nguyện làm hướng đạo viên. Thế
nhưng, ông đã lạc đường đến hai lần. Lần thứ nhất chuyến lạc đường kéo
dài đến vài thập niên. Lần thứ hai chuyến lạc đường đang diễn ra tại
Pháp và không hẹn ngày ngưng nghỉ. Hiện nay, ông Bùi Tín đã trở thành một hiện tượng kỳ quái, gọi tắt là quái tượng. Ðôi chân của Bùi Tín vẫn liên miên đi lạc. Bàn tay của Bùi Tín vẫn liên miên viết tham luận nhằm hướng dẫn "đại khối
nhân dân" tìm cho ra con đường dẫn đến hạnh phúc và thịnh vượng.
Quái
tượng Bùi Tín đã làm cho nhiều người nổi giận. Có người cau mặt nhíu
mày. Có người nắm tay đấm vào mặt bàn. Có người lớn tiếng phản đối bằng
đủ loại ngôn ngữ thậm tệ. Tuy nhiên, khi sự phẫn nộ
lên đến cao độ, con người chỉ có thể lui về thái độ im lặng, buông một
tiếng thở dài thật nhẹ, thật dài... Cuối tiếng thở dài phiền muộn đó, từ
cõi tịch liêu của Hồn Sử, chúng ta sẽ nghe vang vang khắp sông núi lời
giục giã thiết tha nhưng đanh thép của Tổ Quốc
:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét